Ngay
từ thời đầu của nền Đệ Nhất Cộng hòa miền Nam Việt Nam, trước sự phát
triển đồng đều mọi bộ môn Văn học Nghệ thuật, chỉ trong một thời gian
rất ngắn, khiến hôm nay nhìn lại, nhiều người còn ngạc nhiên. Người ta
ghi nhận được sự thăng hoa từ lãnh vực thi ca qua tới hội họa, kịch
nghệ, điện ảnh và, nhất là ở lãnh vực trình diễn âm nhạc.
Ở
lãnh vực này, cuối thập niên 1950 đã mang đến cho giới thưởng ngoạn
nhiều tiếng hát lẫy lừng, như những vì sao rực rỡ trong bầu trời Tân
nhạc. Đó là thời gian lên ngôi hay đăng quang của những tiếng hát nữ;
như Thái Thanh, Bích Chiêu, Hà Thanh, Kim Tước, Mai Hương, Quỳnh Giao,
Lệ Thanh, Bạch Yến, Lệ Thu… Rồi tới lớp trẻ hơn một chút, người ta thấy
có Thanh Lan, Giao Linh, Phương Hồng Quế, Khánh Ly…
Nhưng
có dễ không có một sự xuất hiện nào, như sự có mặt của tiếng hát Thanh
Thúy, một sớm, một chiều, đã được ghi nhận là một hiện tượng khó giải
thích: cô được nhiều nhạc sĩ tên tuổi như Trúc Phương, Trịnh Công Sơn
sáng tác những ca khúc nổi tiếng dành tặng, hay ngợi ca tiếng hát cũng
như con người của cô. Điển hình là các ca khúc “Ướt Mi,” “Thương Một Người” của Trịnh Công Sơn; hoặc “Nửa Đêm Ngoài Phố,” “Phố Đêm”… của Trúc Phương.
Tài tử Nguyễn Long cũng đã thực hiện nguyên một cuốn phim về cô, nhan đề Thúy Đã Đi Rồi, khi người nữ danh ca không đáp ứng tình yêu cuồng nhiệt của ông. Nguyễn Long cũng là tác giả bài “Thôi” do Y Vân phổ nhạc.
Không
chỉ có thế! Cùng lúc dư luận cũng ghi nhận sự ngợi ca của Giáo sư
Nguyễn Văn Trung, Đại học Văn khoa Sài Gòn, trước 1975, và thi sĩ Nguyên
Sa (cũng từng là Giáo sư Đại học Văn khoa) dành cho Thanh Thúy sau thời
điểm 30 tháng Tư, 1975, ở hải ngoại.
Rất
nhiều người vẫn còn nhớ bốn câu thơ tuyệt tác của nhà thơ Hoàng Trúc
Ly, viết tặng Thanh Thúy, ngay khi cô vừa trở thành người của quần
chúng:
Từ em tiếng hát lên trời
Tay xao dòng tóc tay vời âm thanh
Sợi buồn chẻ xuống lòng anh
Lắng nghe da thịt tan thành hư vô. (1)
Tất
nhiên, nhiều người cũng không quên một bài viết khá dài của nhà văn Mai
Thảo, đăng trên Tuần báo Kịch Ảnh hồi Tháng Tư, 1962, mệnh danh Thanh
Thúy là “Tiếng hát không giờ”; bên cạnh “Tiếng hát liêu trai” của Giáo sư Nguyễn Văn Trung chọn đặt cho Thanh Thúy. Hay “Tiếng sầu ru khuya” của nhà văn Tuấn Huy cũng dành cho tiếng hát hiếm, quý ấy.
Để
giải thích hiện tượng đặc biệt về một ca sĩ, ở lãnh vực nghệ thuật, tại
sao lại được giới trí thức, văn nghệ sĩ thuộc lãnh vực văn học như thế
khen ngợi, có người nhấn mạnh tới sự kiện: vì, gia đình gặp khó khăn tài
chánh, để nuôi mẹ và các em, Thanh Thúy phải xin đi hát từ năm 16 tuổi…
Nhưng,
đó không phải là trường hợp duy nhất; nếu người ta chưa quên, nữ danh
ca Minh Hiếu từng bỏ Bình Long, lên Sài Gòn, khi mới 16 tuổi, với dự
định đi học may vì hoàn cảnh gia đình cũng đang trong thời kỳ khó khăn.
Bất đồ, cô được một người quen giới thiệu với nhạc sĩ Ngọc Chánh, khi đó
là trưởng ban nhạc phòng trà Hồ Tắm Cộng Hòa, đường Lê Văn Duyệt, và
được tác giả “Vết Thù Trên Lưng Ngựa Hoang” nhận cho hát.
Nhạc sĩ Ngọc Chánh kể, khởi đầu, Minh Hiếu chỉ biết có hai ca khúc là “Nỗi Lòng” của Nguyễn Văn Khánh và, “Gợi Giấc Mơ Xưa” của
Lê Hoàng Long. Vậy mà cũng rất mau chóng, Minh Hiếu trở thành danh ca.
Cuối cùng, cô còn trở thành phu nhân của một ông tướng trong Quân lực
Việt Nam Cộng hòa.
Ngoài
ra, trong sinh hoạt trình diễn của 20 năm Tân nhạc miền Nam, theo một
số người trong giới, thì chúng ta cũng có khá nhiều nữ ca sĩ có chung
một hoàn cảnh như Thanh Thúy hoặc Minh Hiếu…
Tuy nhiên, các sự thật đó, không hề dẫn tới những vinh dự tương tự như những vinh dự mà nữ danh ca Thanh Thúy đã nhận được.
Cũng
có người nhấn mạnh tới yếu tố nữ ca sĩ Thanh Thúy đã có một nhân cách
cũng hiếm, quý như tiếng hát của cô. Đó là sự kiện cô không bị mang
tiếng hay vướng vào bất cứ một “scandal” lớn
nhỏ nào, trong suốt thời gian đứng trên sân khấu, dưới ánh đèn chói lọi
của danh vọng. Mặc dù cô được rất nhiều nhân vật tên tuổi, quyền thế,
giàu có say mê, theo đuổi hằng đêm…
Giải
thích này theo tôi, cũng không có tính thuyết phục. Bởi vì tất cả những
vòng nguyệt quế vinh quang, Thanh Thúy nhận được đều xảy ra ở thời gian
Thanh Thúy mới khởi nghiệp. Mọi thứ chấm dứt sau khi Thanh Thúy lập gia
đình với ông Ôn Văn Tài, khi ông này còn là một Sĩ quan Không quân cấp
nhỏ.
Tôi trộm nghĩ sẽ rất khó cho ai có ý định giải mã một cách rốt ráo trường hợp ngoại lệ của tiếng hát này.
Với một người như Giáo sư Nguyễn Văn Trung, khi viết về Thanh Thúy, ông cũng đã chọn một tựa đề với từ ẩn ý rất phiếm định là “Ảo Ảnh Thanh Thúy / Tiếng Hát Liêu Trai” (2).
Nó đã sớm cho thấy, không thể có được một giải thích dứt khoát về việc
tại sao tiếng hát đó lại nhận được quá nhiều ngợi ca, trong khi những
tiếng hát nữ khác cũng tài hoa, chẳng những không kém, mà có phần còn
trội hơn Thanh Thúy nữa.
Giáo sư Nguyễn Văn Trung viết: “Thường
một ca sĩ ra hát, bao giờ cũng cố gắng làm sao cho người khác để ý đến
mình, không những chỉ bằng sự hiện diện trước mặt họ mà còn bằng những
cử động, những cái nhìn, nụ cười chiếu thẳng vào khán giả mong làm hài
lòng khán giả như mời gọi, quyến rũ. Đứng trước máy vi âm, ca sĩ chú ý
đến khán giả mong làm hài lòng khán giả bằng sự phô trương tất cả con
người của mình. Trái lại Thanh Thúy ra hát, dĩ nhiên cũng là hát cho
khán giả, nhưng làm ra vẻ không chú ý tới khán giả, không tự giới thiệu,
đi đến với khán giả bằng cử chỉ nụ cười, cái nhìn Thanh Thúy e lệ, kín
đáo, bước ra rụt rè như con cò, tiến đến gần máy vi âm mà không đưa mắt
nhìn vào khán giả.
“Lúc
hát không làm một cử động nào, hai tay luôn nắm lấy cây sắt của máy vi
âm, mắt nhìn xuống đất hoặc nhìn ngang, thỉnh thoảng mới nhìn lên liếc
qua rất nhanh khán giả mà không cố ý nhìn một ai. Thanh Thúy không nhìn
ai, để trở thành vật được nhìn của tất cả. Hình như đôi lúc Thanh Thúy
lại nhắm mắt hay chỉ mở lim dim… Thái độ của Thanh Thúy là đi tới người
khác không phải bằng cách cởi mở, đón tiếp, mời gọi với những cái nhìn,
nụ cười cử chỉ mà bằng cách khép mình lại, thu mình vào bên trong không
xét đến người khác đang nhìn mình. Thỉnh thoảng cô mỉm cười khi lời ý
buồn cười, nhưng cũng như cười với mình thôi. Do đó, ra trình diễn mà
lại như không muốn cho người xem thấy mình vì Thanh Thúy che giấu mặt
đến quá nửa bằng mái tóc bỏ xõa… Hát xong một ca khúc, đi vào trong
ngay, không đứng lại bên máy, bên dàn nhạc để hát tiếp ca khúc sau…” (Nđd)
Thanh Thúy và ca khúc “Ướt Mi” của Trịnh Công Sơn
Trịnh
Công Sơn không phải là người đầu tiên gieo cầu nhắm vào Thanh Thúy, mà
mối tình đơn phương này còn có nhiều nghệ sĩ khác nữa…
Tiếp
tục phân tích thêm về tiếng hát, cũng như con người của nữ ca sĩ Thanh
Thúy, Giáo sư Nguyễn Văn Trung qua bài viết của ông, đã ghi nhận thêm
rằng:
“Thanh
Thúy hát những bài hát buồn bằng một giọng trầm, với gương mặt xa vắng,
khiến khán giả cảm thấy như họ bị lôi kéo về một dĩ vãng xa xôi, nhưng
cũng rất quen thuộc, gần gũi với họ.
“Đó
là hình ảnh dễ dẫn tới những rung động, cảm nghĩ gắn liền với đất nước,
ruộng đồng; với sông Hương, núi Ngự, tiêu biểu cho những gì được gọi là
dân tộc, đặc tính địa phương về mặt tiêu cực: một nỗi buồn man mác, cô
tịch, trầm lặng, vô định.” (3)
Do
đấy, có thể coi Thanh Thúy là hiện thân của nỗi buồn ấy. Cho nên khi
hát, Thanh Thúy không chú ý phát âm rõ, và người nghe hình như cũng
không đòi hỏi hiểu được lời ca vì cốt yếu là truyền cảm được nỗi buồn,
bằng một giọng buồn và thông cảm được điệu buồn, nỗi buồn không nội dung
rõ rệt, không nguyên cớ sâu xa.
Cuối cùng, Giáo sư Trung đi tới kết luận…
“mở”, rất… phiếm định, rằng: “Có
lẽ khán giả thích Thanh Thúy là thích vì vậy, không phải giải thích như
một thân xác, nhưng như một người đàn bà, một thiếu nữ Việt, một cô gái
Huế qua những cái rất ‘đàn bà,’ rất ‘Việt Nam’ và rất ‘Huế’ của Thanh
Thúy.”
Sau thời gian bài viết của Giáo sư Trung được phổ biến, người dân Sài Gòn cũng được đọc bài viết khá “ấn tượng” của
cố nhạc sĩ Trịnh công Sơn, xác nhận mối tình một chiều, ông dành cho
Thanh Thúy, và quan niệm của ông về lẽ thành, bại, được, mất… của ông.
Mở đầu bài viết có tính cách “tâm sự đời tôi”, Trịnh Công Sơn nhắc tới một câu ngạn ngữ của người Pháp, cho rằng: “Cái gì khởi đầu tốt thì sẽ kết thúc tốt.” Tuy nhiên, theo tác giả ca khúc “Thương Một Người” (một
trong những ca khúc ông viết cho Thanh Thúy) thì ở địa hạt văn học,
nghệ thuật, đôi khi câu ngạn ngữ kia, chẳng những không đúng mà có khi
còn ngược lại. Ông viết: “Có những trường hợp người nghệ sĩ đã khởi đầu rất hay, nhưng kết thúc lại rất tệ.”
Về trường hợp cá nhân mình, Trịnh Công Sơn cho biết, ông bước vào lãnh vực âm nhạc tương đối sớm. Ông nói: “Từ
tuổi mười ba, mười bốn, tôi đã làm những lưỡi sóng liếm láp mạn thuyền
văn nghệ. Trong huyết quản tôi có thể thời ấy đã luân lưu những lượng
máu bất bình thường…”
Giải
thích thêm, ông kể, sau một vài biến cố lớn của gia đình, ông đã bắt
đầu một cuộc sống riêng tư, không phẳng lặng. Đời sống mới, từ đó, xô
đẩy ông vào sâu mộng mị triền miên. Cũng ngay tự thời đó, có một câu hỏi
đã thường trực ám ảnh ông. Câu hỏi: “Bài hát đầu tiên của anh là bài gì?”
Sau
những suy gẫm có tính triết lý như những sợi thừng được tung ra tuồng
tự cột, trói mình, nhạc sĩ Trịnh nhắc tới ca khúc đầu tiên của ông. Ca
khúc “Ướt Mi” viết cho Thanh Thúy.
Đây là một phần lai lịch của bài hát ấy:
“Bài
hát ‘Ướt Mi’ được Nhà xuất bản An Phú ấn hành tại Sài Gòn năm 1959.
Thuở ấy, hình như Nguyễn Ánh 9 đã có lúc đệm đàn piano cho Thanh Thúy
hát. Thanh Thúy trở thành giọng hát liêu trai. Anh Nguyễn Văn Trung,
Giáo sư Triết thời ấy ở Văn Khoa cũng đã từng có bài viết về một ‘Tiếng
hát liêu trai’ Thanh Thúy…”
Trịnh Công Sơn nói, ông cố nhớ lại vào năm 1958, ở một phòng trà Sài Gòn, ông thấy Thanh Thúy hát “Giọt Mưa Thu” của Đặng Thế Phong và cô đã khóc (4). Hồi đó, Trịnh Công Sơn đã sớm biết chuyện thân mẫu của Thanh Thúy bị bệnh lao phổi. Hằng đêm bà hát “Giọt Mưa Thu”,
nằm chờ con gái về lại nhà. Những giọt nước mắt ấy, với nhạc sĩ này,
như một cơn mưa nhỏ, rơi khắp tâm hồn quá mức mong manh, nhạy cảm của
ông. Ông thấy như cơn mưa nhỏ kia, đã đưa ông về một quá khứ xa xôi. Một
cõi đời mịt mù nào đó, khiến ông cũng phải nhỏ lệ.
Từ những hạt lệ thương xót cho mẹ của Thanh Thúy, tới hạt lệ “tiền kiếp” chính
mình, Trịnh Công Sơn thấy dường như có chung một định mệnh giữa hai
tiếng khóc. Ông nói, chúng tìm đến nhau, để làm thành dan díu khởi đầu.
Làm thành một thứ tài sản tinh thần riêng của Trịnh Công Sơn. Ông cũng
tiết lộ rằng: “Rất
nhiều bài hát đã được viết trước bài ‘Ướt Mi,’ nhưng bài ‘Ướt Mi’ thì
tồn tại như một số phận của nó và của tôi. Hình như người Nhật rất thích
nó vì dàn nhạc giao hưởng Nhật đã thu bài hát này. Riêng tôi không
thích lắm. Dù sao thì những năm 1959-1960 trong thành phố này nhiều
người đã thích và hát.”
Trở lại với một câu ngạn ngữ của Tây phương, tác giả “Ướt Mi” vẫn không quên tự hỏi: “Thế thì bài hát cuối cùng của anh là bài gì? Sẽ như thế nào?” Theo
ông, sự kết thúc mọi chuyện trong đời sống đều không giống nhau. Ông
vẫn có xu hướng muốn đắm mình trong cái lẽ vô thủy vô chung. Dù cho: “… Người đời cứ thích kéo tôi về trong cái lề thói hữu hạn.”
Vẫn theo tác giả “Ướt Mi” thì
trong mỗi cuộc lên đường, luôn có cái đích để chạm tới. Nhưng trong
lãnh vực nghệ thuật lại khác. Cái cuối cùng có thể là cái vô hạn, và
biết đâu, có khi nó đã có trước thời hạn mà mình không ngờ tới. Ông cũng
quan niệm, sự bất tử không có trước có sau. Thường khi nó nằm ở điểm
mọi cơ duyên cùng tụ lại…
Có
dễ vì thế mà Trịnh Công Sơn đã, không hề có ý định viết bài cuối cùng
bởi vì ông cho rằng, thời điểm cuối cùng, là thời điểm mình không thể
nào bắt gặp được. Nếu vì một lý do nào đó, ông bị bắt buộc phải lên
đường, để viết về những ý nghĩ cuối cùng thì ông tin rằng, đó là lúc ông
sẽ cố gắng cởi trói ông thoát khỏi mọi hệ lụy của đời, để sống chứ
không cần phải nói thêm một điều gì nữa.
Bài
hát cuối cùng của ông, sẽ chỉ mãi mãi là một giấc mơ. Một giấc mơ buồn
thảm mà, ông nghĩ rằng cần phải quên đi để mọi thứ biên giới trong cuộc
đời trở thành vô nghĩa. Để nó sẽ không còn tồn tại như một lời thách
thức nữa.
Kết thúc bài viết của mình, ông nhấn mạnh: “Bài
hát đầu tiên và bài hát cuối cùng, ngẫm ra cũng chỉ là những bèo bọt vô
hình tướng. Chúng ta vui chơi với nó và chúng ta quên đi. Có kẻ gieo
cầu, có người nhặt được. Kẻ nhặt được không chắc là vui mãi. Kẻ không
được cũng chẳng nên lấy đó làm điều. Hơn ba mươi năm trước có một bài
hát đầu tiên, như một trái cầu gieo, có chắc gì hạnh phúc. Không chắc gì
hạnh phúc thì tại sao lại cần phải có bài hát cuối cùng?”
Nhiều
người nói, Trịnh Công Sơn không phải là người đầu tiên gieo cầu nhắm
vào Thanh Thúy. Ngoài ông, với mối tình đơn phương, còn có nhiều nghệ sĩ
khác nữa. Trong số ấy, ồn ào, sôi nổi và cũng bền bỉ nhất là tài tử
Nguyễn Long, tự Long Đất…
Tôi
không biết Giáo sư Nguyễn Văn Trung có chia sẻ quan niệm không cần phải
có thêm cuộc gieo cầu… cuối cùng, như minh xác của nhạc sĩ Trịnh Công
Sơn?
Nguyễn Long và mối tình một chiều với Thanh Thúy
Trong số hàng chục nghệ sĩ từng bày tỏ tình yêu một chiều với Thanh Thúy, dư luận ghi nhận một người “can đảm” đi hết “con đường tình… một chiều” dài thăm thẳm của mình, mà không hề có khoảnh khắc ngập ngừng nào, đó là tài tử Nguyễn Long.
Nguyễn Long (5),
trong một hồi ký được Tuần báo Thế Giới Nghệ Sĩ, bộ cũ, số 36, đề Tháng
Sáu, 1995, đăng lại, Nguyễn Long cho biết, trước khi thực hiện phim Thúy Đã Đi Rồi vào cuối năm 1961, ông đã có tất cả ba vở kịch, mà Thanh Thúy là linh hồn chính…
Đó là các vở kịch “Ghen”,
được diễn tại rạp Cathay và sân khấu Anh Vũ – với Xuân Dung đóng vai
Thanh Thúy, hợp cùng các diễn viên Ba Bé, Linh Sơn, Nguyễn Long… vào đầu
năm 1960.
Vở kịch thứ hai, nhan đề Khi Người Ta Yêu Nhau,
diễn tại rạp Hưng Đạo, cũng trong năm 1960 – với Kim Cương nhập vai
Thanh Thúy, cùng Túy Hoa, Bảy Xê, Ngọc Phu, Ba Bé và Nguyễn Long.
Vở kịch thứ ba, có tên Tan Tác, cũng vẫn Kim Cương vai Thanh Thúy, cùng với Vũ Đức Duy, Vân Hùng, Túy Hoa, và Nguyễn Long…
Không biết có phải vì thấy rằng, ba vở kịch viết riêng cho “Tiếng hát liêu trai” vẫn chưa đủ “nặng ký”, để Thanh Thúy chú ý tới tình yêu cuồng nhiệt của mình, nên Tháng Mười Một, 1961, Nguyễn Long viết, và quay cuốn phim Thúy Đã Đi Rồi;
với Minh Hiếu vai Thanh Thúy, Yến Vĩ vai Thanh Mỹ (em ruột Thanh
Thúy?); và Mai Trường, Trần Văn Trạch, Ánh Hoa cùng rất nhiều nghệ sĩ
khác, như Hùng Cường, Minh Chí, Ngọc Hương, Hề Minh…
Được
biết, nội dung cuốn phim mô tả một ông đạo diễn yêu say mê một ca sĩ,
nhưng không được đáp lại. Ông bị ám ảnh tới mức thấy thiếu nữ nào, ông
cũng liên tưởng tới người ca sĩ mà ông đã đem lòng tương tư đêm, ngày.
Cuối cùng, trong một phút bốc đồng, mất kiểm soát, người đạo diễn kia đã
bắt cóc và giết chết cô ca sĩ. Tuy nhiên, không nhờ thế mà ông ta xóa
nhòa được hình ảnh cô ca sĩ trong tâm tưởng. Cuối cùng, đạo diễn nọ, đã
chọn khung cảnh trước nhà thờ Đức Bà Sài Gòn, để tự vẫn.
Phải chăng vì tính bi thảm quá dữ dội của nội dung phim, nên phim Thúy Đã Đi Rồi bị
cấm tới năm 1964, mới được phép công chiếu. (?) Khi đó, Nguyễn Long đã
lập gia đình. Do đấy, vì tế nhị, Nguyễn Long kể rằng: “Phim
chỉ được chiếu một lần ở Sài Gòn và một lần ở Huế! Nhưng dù sao thì
cuốn phim cũng đã được biết đến một cách rộng rãi trong quần chúng.”
Vẫn theo Nguyễn Long thì sự phổ cập của cuốn phim, sớm trở thành một “cách nói” mới. Đó là khi tìm bạn, không gặp, người tìm đã để lại lời nhắn rằng “Thúy Đã Đi Rồi!”
Tài
tử Nguyễn Long cũng ghi thêm, thời gian kể trên là thời gian Thanh Thúy
nghỉ hát để lo chuyện gia đình: cô thành hôn với Đại úy Không quân Ôn
Văn Tài, năm 1963…
Năm 1967, “Tiếng hát liêu trai” trở
lại với không khí phòng trà Ritz ở đường Trần Hưng Đạo, không thành
công. Nửa chừng, Thanh Thúy trở lại Cần Thơ, là căn cứ không quân, Ôn
Văn Tài phục vụ, thời đó.
Tới
cuối năm 1972, một lần nữa, Thanh Thúy trở lại Sài Gòn, hát cho phòng
trà Quốc Tế, đường Lê Lợi, với ban nhạc Ngọc Chánh. Lần này, “Tiếng hát lúc không giờ” được mô tả là thành công, ngoại lệ.
Nguyễn Long kể: “Sự
kỳ diệu hiếm hoi đã xảy đến cho Thanh Thúy khi tiếng hát của Thúy lại
vang xa, vang xa hơn, và vẫn thu hút, vẫn quyến rũ như ngày nào…”
Trong
hồi ký của mình, Nguyễn Long cũng kể chuyện đầu năm 1963, ca sĩ Duy
Khánh (một trong những nghệ sĩ cũng từng âm thầm theo đuổi Thanh Thúy
nhiều năm trước), tổ chức một chương trình đại nhạc hội ở ba nơi: Huế,
Đà Nẵng và, Quảng Trị…(6)
Phần
kịch, Duy Khánh chọn diễn mấy vở của Nguyễn Long cùng với ban nhạc
Thăng Long, Thanh Thúy, Mai Vi, Khánh Băng và, Nguyễn Long.
Sau
đêm hát cuối cùng ở Quảng Trị, hôm sau, mọi người trở lại Đà Nẵng, để
lên máy bay về Sài Gòn. Theo sắp xếp thì trên chiếc citroen từ Quảng Trị
về Đà Nẵng, sẽ có vợ chồng Nguyễn Long, Hoài Bắc, Thanh Thúy và Duy
Khánh. Tuy nhiên, để bày tỏ tình yêu cũng như cho thấy sự… can đảm vì
tình yêu, Duy Khánh nhất định không đi xe hơi mà, một mình chạy chiếc
vespa về Đà Nẵng.
Đường
xa có tới hàng trăm cây số, theo Nguyễn Long đường đi có nhiều đoạn
khúc khuỷu, ngoằn nghèo, lên, xuống đèo rất nguy hiểm… Nhưng Duy Khánh
vẫn lái chiếc vespa như bay trước mũi xe citroen…
Nguyễn Long viết: “Nhiều
khi anh lại cố tình lái sát bờ đèo để tỏ cho người ngồi trong xe biết
là anh đang rất buồn và sẵn sàng… được chết. Những trường hợp như thế
hay với bất cứ trường hợp nào khác, Thanh Thúy cũng chỉ mỉm cười…”
Sự
việc diễn ra ngay trước mắt này, khiến Nguyễn Long chợt nhìn lại mình.
Họ Nguyễn nhớ, ông từng có 400 đêm ngủ trước cửa nhà Thanh Thúy. Ông
cũng có chín lần lái xe đâm thẳng vào quán Anh Vũ, lúc Thanh Thúy, có
mặt, trình diễn. Ngoài ra, trong thời gian quay phim Thúy Đã Đi Rồi ở Huế, thình lình nhận được điện thoại của “Tiếng hát liêu trai”, Nguyễn Long đã lái xe từ lúc 5 giờ sáng ở Huế, để có mặt tại Sài Gòn 9 giờ tối ở phòng trà Tự Do…
Ông tâm sự: “Rất
nhiều lần tôi tỏ ra là một cây si… ‘nặng ký,’ nhưng cũng chỉ nhận được
nụ cười, như nụ cười Thanh Thúy đã dành cho Duy Khánh mà thôi.”
Sau biến cố 1975, mãi tới Tháng Năm, 1981, người thực hiện, và đóng vai chính trong cuốn phim Thúy Đã Đi Rồi, mới gặp lại Thanh Thúy ở San Francisco (sau hơn 10 tháng ở trại đảo). Nguyễn Long viết: “Gặp
lại dĩ vãng thần tiên của mình và thấy Thanh Thúy hát trên sân khấu San
Francisco, tôi thấy Thúy muôn đời không thay đổi. Thúy là người ca sĩ,
bạn hiền nhất của nền Tân nhạc Việt Nam. Giọng hát của Thúy vẫn như xưa.
Có phần chắc hơn, già dặn và rung cảm hơn. Thúy là một trong số ít ca
sĩ vẫn giữ được giọng hát của mình, không sút giảm dù qua biết bao thăng
trầm của đất nước và cá nhân…”
Thanh Thúy, tiếng hát khói sương
Ở
một góc độ khác, góc độ thi sĩ và đồng thời là Giáo sư Triết, nhà thơ
Nguyên Sa cũng đã có bài nhận định về trường hợp ngoại lệ của tiếng hát
Thanh Thúy.
Mở
đầu bài viết, nhà thơ Nguyên Sa nhắc tới bốn câu thơ tuyệt tác của
Hoàng Trúc Ly, dành cho Thanh Thúy. Kế tiếp, ông thuật lại cuộc đối
thoại giữa ông và tác giả bài “Thanh Thúy, Tiếng Hát Lúc Không Giờ” của nhà văn Mai Thảo:
“Tôi hỏi Mai Thảo:
– Tại sao tiếng hát lúc không giờ?
Mai Thảo trả lời bằng những tiếng ngắn:
– Vì muộn.
Tôi
biết ngôn ngữ với Mai Thảo, là mật ngữ, lặng im là siêu ngữ, phối hợp
mật ngữ với siêu ngữ mới làm mở tung ra được cánh cửa lớn của kỳ ngữ.
Bạn tôi đã cất tiếng:
– Là muộn màng…”
Tác giả “Tuổi Mười Ba” viết, ông hiểu “Tiếng hát khói sương” trong ngôn ngữ ẩn và hiện của tác giả Tháng Giêng Cỏ Non,
có mong manh, có mờ khuất, có âm thanh thực tại bao phủ trong âm thanh
phi thực, có nữ ca sĩ và cánh bướm bay chập chờn trong đêm.
Không
thể phân định Thanh Thúy đang bằng giọng hát, đang bay đi trong đêm,
trở mình, chiếc áo đã thành cánh bướm trong khói, trong sương, hay chính
cánh bướm, từ khói, từ sương, đang lần theo hơi thở trở về làm thành
tiếng hát tuyệt vời, người nữ ca sĩ tuyệt vời đang lãng đãng trôi.
Một
tiếng hát chuyên chở được trọn vẹn cả mộng và thực như thế, tất yếu
phải có một thời điểm của nó. Có thời điểm của mặt trời mọc, có thời
điểm của mặt trăng lên, có thời điểm của hoa quỳnh, có thời điểm của dạ
lan.
Không
phải giờ nào ngắm trăng cũng được, không phải giờ nào xem hoa quỳnh
cũng được, không phải giờ nào nghe Thanh Thúy cũng được. Phải nghe vào
lúc đó, lúc khuya, lúc muộn, lúc thời điểm của “Tiếng hát lúc không giờ”, lúc thời gian và không gian gồm thâu trong tà áo và hơi thở của “Tiếng hát khói sương”.
Tác giả của “Áo Lụa Hà Đông” kể
lại thời ông làm băng nhạc ở xứ người, những năm thuộc thập niên 1980,
1990, với nhạc sĩ Lê Văn Thiện, phụ trách phần hòa âm. Ông nói với họ Lê
rằng, ông muốn tiếng hát Thanh Thúy mở đầu cho cuốn băng có nhiều tiếng
hát. Mặc dù ông biết, bình thường nhà sản xuất luôn đợi tới khi mọi
tiếng hát đã thu xong, đã được nghe đi, nghe lại nhiều lần rồi mới chọn
tiếng hát mở đầu cho cả cuộn băng. Ông kể, ông không ngờ, nhạc sĩ Lê Văn
Thiện, đồng ý ngay, không chút thắc mắc.
Với tác giả “Tháng Sáu Trời Mưa”,
tiếng hát Thanh Thúy là tiếng hát tổng hợp được khói và sương, thực và
phi thực, cuộc đời và mộng ảo, hiện tại và sự trôi chảy của thời gian,
có và không, còn gì phải nghi ngờ, có gì phải thắc mắc!
Người thi sĩ của chúng ta viết: “Thực
mà phi thực. Như khói, như sương. Mong manh như con chim nhạn bay trong
dòng sông sương mù, Thanh Thúy mỏng manh, đôi mắt to đen sâu thẳm, mái
tóc đen chảy xuống, hai bờ vai chao đảo, giọng hát cất lên mà như nói,
ca mà như tâm sự, âm thanh mà như ve vuốt, điệu láy, như đầu đã tựa vào
vai, tiếng ngân làm thành sợi tóc lùa vào trên ngực. Chính trong tất cả
những ý nghĩa đó, có thêm sự hiện diện của dòng sông đam mê, có cộng với
ý thức định mệnh, Nguyễn Văn Trung gọi tiếng hát Thanh Thúy là ‘Tiếng
hát liêu trai’ Tuấn Huy gọi là ‘Tiếng sầu ru khuya’…”
Tiếp
tục dòng cảm xúc cực tả, Giáo sư Triết Nguyên Sa/Trần Bích Lan thấy mái
tóc đen, dài, đổ xuống một bên vai như dòng thác lũ. Một đôi mắt mở to
hồn nhiên. Một khóe môi cười… Hai bàn tay nâng niu tà áo. Thanh Thúy đó.
Người con gái hai mươi mốt mùa xuân đó. Nàng ngồi kia. Lọ hoa cẩm
chướng ngăn đôi giữa thi sĩ và ca sĩ. Mùi hoa phảng phất thơm. Không khí
mơ màng như có hương trầm…
Thi
sĩ ngước lên tấm hình thân mẫu Thanh Thúy. Vòng nhang cuộn tròn… Ông
nhớ nhà văn Tuấn Huy, người cũng có ấn tượng mạnh mẽ về vòng nhang cuộn
tròn, thắp lên, tưởng nhớ thân mẫu Thanh Thúy qua đời một tháng trước
đấy. Cơn đau của bà mẹ hiền đã làm thành động lực đẩy Thanh Thúy ra
trước tiền trường sân khấu.
Thanh Thúy nói với thi sĩ rất đơn giản, chân tình: “Em
bắt đầu hát ở phòng trà Văn Hoa, trước là Việt Long, cũng gọi là phòng
trà Đức Quỳnh, chủ là bà Việt Long, đường Cao Thắng, năm 1959.”
Thi sĩ hỏi: “Năm ấy em bao nhiêu tuổi?”
Cô nói: “Em
mười lăm tuổi, anh. Em muốn kiếm tiền để nuôi và lo thuốc thang cho mẹ
em… Văn Hoa hồi ấy có Lưu Bình trống. (Sau Lưu Bình lấy con gái bà Việt
Long). Ở đó còn có Lê Đô, trompette, có Chấn, piano. Bài hát đầu tiên em
hát là bài ‘Nhạt Nắng’ của Xuân Lôi. Một bài tango…”
Với
nhà thơ Nguyên Sa thì, tango hay rumba, bolero, boston hay valse, paso
hoặc nhạc khúc miền Trung đều biến giọng hát Thanh Thúy thành “Giọng hát ma túy”. Nghe là phải thích. Thích là phải mê, phải ghiền. Ông không biết giữa hai chữ “Ghiền” và “Mê” chữ nào mãnh liệt hơn.
Nhưng, theo giáo sư triết này thì “mê” nhiều phần tâm lý hơn sinh lý, thuộc về tinh thần nhiều hơn phần thân xác. “Ghiền” thuộc về sinh lý nhiều hơn tâm lý, nó nghiêng về thân xác nhiều hơn tâm hồn. Nhiều ràng buộc, nhiều xiềng xích hơn.
Giáo
sư Nguyễn Văn Trung cũng nghĩ đến xiềng xích, ràng buộc, rõ ràng có
định mệnh, chắc chắn không thể vượt thoát, lại còn có cả Đông phương
huyền hoặc và, siêu nhiên với “Tiếng hát liêu trai”.
Thi sĩ của chúng ta cất tiếng hỏi: “Người
thanh niên nào không muốn lạc vào thiên đường ấy, thiên đường đột nhiên
hiện ra, ghì chặt lấy thân thể, cuốn chặt tứ chi, hút lấy trong rạo rực
cả tinh túy của thân xác và linh hồn, cho mà dâng hiến, hân hoan, mộng
thôi mà điên cuồng, mà thực không còn thực. Liêu trai. Thiên đường.
Thiên đường đó: Tiếng hát liêu trai.”
Trước
khi chấm dứt bài viết, nhà thơ Nguyên Sa đã làm một sơ kết về những bài
viết, những ngợi ca chưa từng đến với bất cứ một tiếng hát nào khác,
ngoài Thanh Thúy. Như Nguyễn Văn Trung, Mai Thảo, Tuấn Huy, Nguyễn Long
(không kể các nhạc sĩ)… Vẫn theo ông, hiện tượng này cho thấy Thanh Thúy
chính là người yêu trong mộng của cả một thế hệ, cảm xúc của cả một
thời đại, phản ảnh cái khách quan mênh mông, trong cái chủ quan riêng lẻ
sống thực và, chân thành.
Tác giả bài thơ nổi tiếng “Nga” xác nhận: “Hẳn
nhiên những ca khúc viết tặng cho ‘Tiếng hát lên trời’ còn nhiều hơn
nữa. Trịnh Công Sơn trước những ngày Văn khoa, trước những ngày Huế, Sài
Gòn, Hà Nội, Trịnh Công Sơn những ngày tháng đầu đời, đã viết ‘Ướt Mi’
cho Thanh Thúy. Trịnh Công Sơn nói với Thanh Thúy sẽ tặng Thanh Thúy
trước sau hai ca khúc, ‘Ướt Mi’ ca khúc đầu tay của người nhạc sĩ lừng
lẫy và ca khúc cuối cùng của đời anh. Tình cảm vời vợi. Tình cảm vời vợi
bao phủ cả một thế hệ khi tiếng hát liêu trai, tiếng hát ma túy, tiếng
hát khói sương cất lên. Làm sao không vời vợi? Làm sao không yêu?” (Trích Nguyên Sa, Nghệ Sĩ Việt Nam ở Hải Ngoại, tập 1)
Câu
hỏi trước khi ra khỏi bài viết của thi sĩ Nguyên Sa, tới hôm nay, vẫn
còn được một số người nhắc tới, về Thanh Thúy, như một hiện tượng gom
được cả thực và phi thực. Cả có và không trong một tiếng hát. Một con
người…
Du Tử Lê
Chú thích:
(1) Có bản chép “Lắng nghe da thịt tan tành xưa sau.”
(2) Theo tư liệu và được sự cho phép của Tuần báo Thế Giới Nghệ Sĩ số 43, đề ngày 4 Tháng Mười Hai, 2015, chủ đề “Nữ danh ca Thanh Thúy.”
(3) Thanh Thúy sinh năm 1943 tại Huế. Đi hát từ năm 1959. Năm 1961, cô được chọn là “Hoa hậu nghệ sĩ”,
do Bác sĩ Trương Quang Hớn tổ chức ở phòng trà Anh Vũ. Đồng thời cô
cũng được coi là nữ ca sĩ ăn khách nhất trong ba năm liên tiếp.
(4) Đặng Thế Phong sinh năm 1918, mất năm 1942. Ca khúc “Giọt Mưa Thu” là sáng tác cuối cùng của ông, viết vào những ngày cuối đời trên giường bệnh năm 1942. Ban đầu bản nhạc mang tên “Vạn Cổ Sầu”, nhưng theo ý một vài người bạn, ông đặt lại là “Giọt Mưa Thu” cho
bớt sầu thảm. Một số tài liệu xưa từng ghi, ca khúc này có sự tham gia
viết lời của cố nhạc sĩ Bùi Công Kỳ (1919-1985). (Nguồn: Bách Khoa Toàn
Thư – Mở).
(5) Tài
tử Nguyễn Long tên thật Nguyễn Ngọc Long, sinh ngày 2 Tháng Ba, 1934,
tại Hải Phòng. Ông mất ngày 2 Tháng Mười Một, 2009, ở thành phố Seattle,
Washington. (Nguồn: Bách Khoa Toàn Thư – Mở).
(6) Ca sĩ kiêm nhạc sĩ Duy Khánh sinh năm 1936 tại Quảng Trị, mất năm 2003 ở miền Nam California. Ông được coi là một trong “Tứ trụ Nhạc vàng” thời kỳ đầu. Ba người kia là Nhật Trường, Hùng Cường và Chế Linh. (Nguồn: Bách Khoa Toàn Thư – Mở).
* * *
Mời nghe hai bản nhạc xưa gắn liền với tên tuổi Thanh Thúy:
* Ướt Mi. Sáng tác: Trịnh Công Sơn. Trình bày: Thanh Thúy
* Thúy Đã Đi Rồi. Sáng tác: Y Vân. Trình bày: Hùng Cường