Friday, November 22, 2024

Thanh Thúy, Hiện Tượng Khó Giải Thích

Chân dung ca sĩ Thanh Thúy trên những bài nhạc của nhạc sĩ Trúc Phương ngày xưa

Ngay từ thời đầu của nền Đệ Nhất Cộng hòa miền Nam Việt Nam, trước sự phát triển đồng đều mọi bộ môn Văn học Nghệ thuật, chỉ trong một thời gian rất ngắn, khiến hôm nay nhìn lại, nhiều người còn ngạc nhiên. Người ta ghi nhận được sự thăng hoa từ lãnh vực thi ca qua tới hội họa, kịch nghệ, điện ảnh và, nhất là ở lãnh vực trình diễn âm nhạc.
Ở lãnh vực này, cuối thập niên 1950 đã mang đến cho giới thưởng ngoạn nhiều tiếng hát lẫy lừng, như những vì sao rực rỡ trong bầu trời Tân nhạc. Đó là thời gian lên ngôi hay đăng quang của những tiếng hát nữ; như Thái Thanh, Bích Chiêu, Hà Thanh, Kim Tước, Mai Hương, Quỳnh Giao, Lệ Thanh, Bạch Yến, Lệ Thu… Rồi tới lớp trẻ hơn một chút, người ta thấy có Thanh Lan, Giao Linh, Phương Hồng Quế, Khánh Ly…
Nhưng có dễ không có một sự xuất hiện nào, như sự có mặt của tiếng hát Thanh Thúy, một sớm, một chiều, đã được ghi nhận là một hiện tượng khó giải thích: cô được nhiều nhạc sĩ tên tuổi như Trúc Phương, Trịnh Công Sơn sáng tác những ca khúc nổi tiếng dành tặng, hay ngợi ca tiếng hát cũng như con người của cô. Điển hình là các ca khúc “Ướt Mi,” “Thương Một Người” của Trịnh Công Sơn; hoặc “Nửa Đêm Ngoài Phố,” “Phố Đêm”… của Trúc Phương.

Tài tử Nguyễn Long cũng đã thực hiện nguyên một cuốn phim về cô, nhan đề Thúy Đã Đi Rồi, khi người nữ danh ca không đáp ứng tình yêu cuồng nhiệt của ông. Nguyễn Long cũng là tác giả bài “Thôi” do Y Vân phổ nhạc.
Không chỉ có thế! Cùng lúc dư luận cũng ghi nhận sự ngợi ca của Giáo sư Nguyễn Văn Trung, Đại học Văn khoa Sài Gòn, trước 1975, và thi sĩ Nguyên Sa (cũng từng là Giáo sư Đại học Văn khoa) dành cho Thanh Thúy sau thời điểm 30 tháng Tư, 1975, ở hải ngoại.
Rất nhiều người vẫn còn nhớ bốn câu thơ tuyệt tác của nhà thơ Hoàng Trúc Ly, viết tặng Thanh Thúy, ngay khi cô vừa trở thành người của quần chúng:

Từ em tiếng hát lên trời
Tay xao dòng tóc tay vời âm thanh
Sợi buồn chẻ xuống lòng anh
Lắng nghe da thịt tan thành hư vô. (1)

Tất nhiên, nhiều người cũng không quên một bài viết khá dài của nhà văn Mai Thảo, đăng trên Tuần báo Kịch Ảnh hồi Tháng Tư, 1962, mệnh danh Thanh Thúy là “Tiếng hát không giờ”; bên cạnh “Tiếng hát liêu trai” của Giáo sư Nguyễn Văn Trung chọn đặt cho Thanh Thúy. Hay “Tiếng sầu ru khuya” của nhà văn Tuấn Huy cũng dành cho tiếng hát hiếm, quý ấy.
Để giải thích hiện tượng đặc biệt về một ca sĩ, ở lãnh vực nghệ thuật, tại sao lại được giới trí thức, văn nghệ sĩ thuộc lãnh vực văn học như thế khen ngợi, có người nhấn mạnh tới sự kiện: vì, gia đình gặp khó khăn tài chánh, để nuôi mẹ và các em, Thanh Thúy phải xin đi hát từ năm 16 tuổi…
Nhưng, đó không phải là trường hợp duy nhất; nếu người ta chưa quên, nữ danh ca Minh Hiếu từng bỏ Bình Long, lên Sài Gòn, khi mới 16 tuổi, với dự định đi học may vì hoàn cảnh gia đình cũng đang trong thời kỳ khó khăn. Bất đồ, cô được một người quen giới thiệu với nhạc sĩ Ngọc Chánh, khi đó là trưởng ban nhạc phòng trà Hồ Tắm Cộng Hòa, đường Lê Văn Duyệt, và được tác giả “Vết Thù Trên Lưng Ngựa Hoang” nhận cho hát.

Nhạc sĩ Ngọc Chánh kể, khởi đầu, Minh Hiếu chỉ biết có hai ca khúc là “Nỗi Lòng” của Nguyễn Văn Khánh và, “Gợi Giấc Mơ Xưa” của Lê Hoàng Long. Vậy mà cũng rất mau chóng, Minh Hiếu trở thành danh ca. Cuối cùng, cô còn trở thành phu nhân của một ông tướng trong Quân lực Việt Nam Cộng hòa.

Ngoài ra, trong sinh hoạt trình diễn của 20 năm Tân nhạc miền Nam, theo một số người trong giới, thì chúng ta cũng có khá nhiều nữ ca sĩ có chung một hoàn cảnh như Thanh Thúy hoặc Minh Hiếu…
Tuy nhiên, các sự thật đó, không hề dẫn tới những vinh dự tương tự như những vinh dự mà nữ danh ca Thanh Thúy đã nhận được.
Cũng có người nhấn mạnh tới yếu tố nữ ca sĩ Thanh Thúy đã có một nhân cách cũng hiếm, quý như tiếng hát của cô. Đó là sự kiện cô không bị mang tiếng hay vướng vào bất cứ một “scandal” lớn nhỏ nào, trong suốt thời gian đứng trên sân khấu, dưới ánh đèn chói lọi của danh vọng. Mặc dù cô được rất nhiều nhân vật tên tuổi, quyền thế, giàu có say mê, theo đuổi hằng đêm…
Giải thích này theo tôi, cũng không có tính thuyết phục. Bởi vì tất cả những vòng nguyệt quế vinh quang, Thanh Thúy nhận được đều xảy ra ở thời gian Thanh Thúy mới khởi nghiệp. Mọi thứ chấm dứt sau khi Thanh Thúy lập gia đình với ông Ôn Văn Tài, khi ông này còn là một Sĩ quan Không quân cấp nhỏ.
Tôi trộm nghĩ sẽ rất khó cho ai có ý định giải mã một cách rốt ráo trường hợp ngoại lệ của tiếng hát này.

Với một người như Giáo sư Nguyễn Văn Trung, khi viết về Thanh Thúy, ông cũng đã chọn một tựa đề với từ ẩn ý rất phiếm định là “Ảo Ảnh Thanh Thúy / Tiếng Hát Liêu Trai” (2). Nó đã sớm cho thấy, không thể có được một giải thích dứt khoát về việc tại sao tiếng hát đó lại nhận được quá nhiều ngợi ca, trong khi những tiếng hát nữ khác cũng tài hoa, chẳng những không kém, mà có phần còn trội hơn Thanh Thúy nữa.
Giáo sư Nguyễn Văn Trung viết: “Thường một ca sĩ ra hát, bao giờ cũng cố gắng làm sao cho người khác để ý đến mình, không những chỉ bằng sự hiện diện trước mặt họ mà còn bằng những cử động, những cái nhìn, nụ cười chiếu thẳng vào khán giả mong làm hài lòng khán giả như mời gọi, quyến rũ. Đứng trước máy vi âm, ca sĩ chú ý đến khán giả mong làm hài lòng khán giả bằng sự phô trương tất cả con người của mình. Trái lại Thanh Thúy ra hát, dĩ nhiên cũng là hát cho khán giả, nhưng làm ra vẻ không chú ý tới khán giả, không tự giới thiệu, đi đến với khán giả bằng cử chỉ nụ cười, cái nhìn Thanh Thúy e lệ, kín đáo, bước ra rụt rè như con cò, tiến đến gần máy vi âm mà không đưa mắt nhìn vào khán giả.
“Lúc hát không làm một cử động nào, hai tay luôn nắm lấy cây sắt của máy vi âm, mắt nhìn xuống đất hoặc nhìn ngang, thỉnh thoảng mới nhìn lên liếc qua rất nhanh khán giả mà không cố ý nhìn một ai. Thanh Thúy không nhìn ai, để trở thành vật được nhìn của tất cả. Hình như đôi lúc Thanh Thúy lại nhắm mắt hay chỉ mở lim dim… Thái độ của Thanh Thúy là đi tới người khác không phải bằng cách cởi mở, đón tiếp, mời gọi với những cái nhìn, nụ cười cử chỉ mà bằng cách khép mình lại, thu mình vào bên trong không xét đến người khác đang nhìn mình. Thỉnh thoảng cô mỉm cười khi lời ý buồn cười, nhưng cũng như cười với mình thôi. Do đó, ra trình diễn mà lại như không muốn cho người xem thấy mình vì Thanh Thúy che giấu mặt đến quá nửa bằng mái tóc bỏ xõa… Hát xong một ca khúc, đi vào trong ngay, không đứng lại bên máy, bên dàn nhạc để hát tiếp ca khúc sau…” (Nđd)

Thanh Thúy và ca khúc “Ướt Mi” của Trịnh Công Sơn
Trịnh Công Sơn không phải là người đầu tiên gieo cầu nhắm vào Thanh Thúy, mà mối tình đơn phương này còn có nhiều nghệ sĩ khác nữa…
Tiếp tục phân tích thêm về tiếng hát, cũng như con người của nữ ca sĩ Thanh Thúy, Giáo sư Nguyễn Văn Trung qua bài viết của ông, đã ghi nhận thêm rằng: 

“Thanh Thúy hát những bài hát buồn bằng một giọng trầm, với gương mặt xa vắng, khiến khán giả cảm thấy như họ bị lôi kéo về một dĩ vãng xa xôi, nhưng cũng rất quen thuộc, gần gũi với họ.
“Đó là hình ảnh dễ dẫn tới những rung động, cảm nghĩ gắn liền với đất nước, ruộng đồng; với sông Hương, núi Ngự, tiêu biểu cho những gì được gọi là dân tộc, đặc tính địa phương về mặt tiêu cực: một nỗi buồn man mác, cô tịch, trầm lặng, vô định.” (3)

Do đấy, có thể coi Thanh Thúy là hiện thân của nỗi buồn ấy. Cho nên khi hát, Thanh Thúy không chú ý phát âm rõ, và người nghe hình như cũng không đòi hỏi hiểu được lời ca vì cốt yếu là truyền cảm được nỗi buồn, bằng một giọng buồn và thông cảm được điệu buồn, nỗi buồn không nội dung rõ rệt, không nguyên cớ sâu xa.
Cuối cùng, Giáo sư Trung đi tới kết luận…
 “mở”, rất… phiếm định, rằng: “Có lẽ khán giả thích Thanh Thúy là thích vì vậy, không phải giải thích như một thân xác, nhưng như một người đàn bà, một thiếu nữ Việt, một cô gái Huế qua những cái rất ‘đàn bà,’ rất ‘Việt Nam’ và rất ‘Huế’ của Thanh Thúy.”

Sau thời gian bài viết của Giáo sư Trung được phổ biến, người dân Sài Gòn cũng được đọc bài viết khá “ấn tượng” của cố nhạc sĩ Trịnh công Sơn, xác nhận mối tình một chiều, ông dành cho Thanh Thúy, và quan niệm của ông về lẽ thành, bại, được, mất… của ông.

Mở đầu bài viết có tính cách “tâm sự đời tôi”, Trịnh Công Sơn nhắc tới một câu ngạn ngữ của người Pháp, cho rằng: “Cái gì khởi đầu tốt thì sẽ kết thúc tốt.” Tuy nhiên, theo tác giả ca khúc “Thương Một Người” (một trong những ca khúc ông viết cho Thanh Thúy) thì ở địa hạt văn học, nghệ thuật, đôi khi câu ngạn ngữ kia, chẳng những không đúng mà có khi còn ngược lại. Ông viết: “Có những trường hợp người nghệ sĩ đã khởi đầu rất hay, nhưng kết thúc lại rất tệ.”
Về trường hợp cá nhân mình, Trịnh Công Sơn cho biết, ông bước vào lãnh vực âm nhạc tương đối sớm. Ông nói: “Từ tuổi mười ba, mười bốn, tôi đã làm những lưỡi sóng liếm láp mạn thuyền văn nghệ. Trong huyết quản tôi có thể thời ấy đã luân lưu những lượng máu bất bình thường…”
Giải thích thêm, ông kể, sau một vài biến cố lớn của gia đình, ông đã bắt đầu một cuộc sống riêng tư, không phẳng lặng. Đời sống mới, từ đó, xô đẩy ông vào sâu mộng mị triền miên. Cũng ngay tự thời đó, có một câu hỏi đã thường trực ám ảnh ông. Câu hỏi: “Bài hát đầu tiên của anh là bài gì?”
Sau những suy gẫm có tính triết lý như những sợi thừng được tung ra tuồng tự cột, trói mình, nhạc sĩ Trịnh nhắc tới ca khúc đầu tiên của ông. Ca khúc “Ướt Mi” viết cho Thanh Thúy.
Đây là một phần lai lịch của bài hát ấy:

 “Bài hát ‘Ướt Mi’ được Nhà xuất bản An Phú ấn hành tại Sài Gòn năm 1959. Thuở ấy, hình như Nguyễn Ánh 9 đã có lúc đệm đàn piano cho Thanh Thúy hát. Thanh Thúy trở thành giọng hát liêu trai. Anh Nguyễn Văn Trung, Giáo sư Triết thời ấy ở Văn Khoa cũng đã từng có bài viết về một ‘Tiếng hát liêu trai’ Thanh Thúy…”

Trịnh Công Sơn nói, ông cố nhớ lại vào năm 1958, ở một phòng trà Sài Gòn, ông thấy Thanh Thúy hát “Giọt Mưa Thu” của Đặng Thế Phong và cô đã khóc (4). Hồi đó, Trịnh Công Sơn đã sớm biết chuyện thân mẫu của Thanh Thúy bị bệnh lao phổi. Hằng đêm bà hát “Giọt Mưa Thu”, nằm chờ con gái về lại nhà. Những giọt nước mắt ấy, với nhạc sĩ này, như một cơn mưa nhỏ, rơi khắp tâm hồn quá mức mong manh, nhạy cảm của ông. Ông thấy như cơn mưa nhỏ kia, đã đưa ông về một quá khứ xa xôi. Một cõi đời mịt mù nào đó, khiến ông cũng phải nhỏ lệ.
Từ những hạt lệ thương xót cho mẹ của Thanh Thúy, tới hạt lệ “tiền kiếp” chính mình, Trịnh Công Sơn thấy dường như có chung một định mệnh giữa hai tiếng khóc. Ông nói, chúng tìm đến nhau, để làm thành dan díu khởi đầu. Làm thành một thứ tài sản tinh thần riêng của Trịnh Công Sơn. Ông cũng tiết lộ rằng: “Rất nhiều bài hát đã được viết trước bài ‘Ướt Mi,’ nhưng bài ‘Ướt Mi’ thì tồn tại như một số phận của nó và của tôi. Hình như người Nhật rất thích nó vì dàn nhạc giao hưởng Nhật đã thu bài hát này. Riêng tôi không thích lắm. Dù sao thì những năm 1959-1960 trong thành phố này nhiều người đã thích và hát.”

Trở lại với một câu ngạn ngữ của Tây phương, tác giả “Ướt Mi” vẫn không quên tự hỏi: “Thế thì bài hát cuối cùng của anh là bài gì? Sẽ như thế nào?” Theo ông, sự kết thúc mọi chuyện trong đời sống đều không giống nhau. Ông vẫn có xu hướng muốn đắm mình trong cái lẽ vô thủy vô chung. Dù cho: “… Người đời cứ thích kéo tôi về trong cái lề thói hữu hạn.”
Vẫn theo tác giả “Ướt Mi” thì trong mỗi cuộc lên đường, luôn có cái đích để chạm tới. Nhưng trong lãnh vực nghệ thuật lại khác. Cái cuối cùng có thể là cái vô hạn, và biết đâu, có khi nó đã có trước thời hạn mà mình không ngờ tới. Ông cũng quan niệm, sự bất tử không có trước có sau. Thường khi nó nằm ở điểm mọi cơ duyên cùng tụ lại…
Có dễ vì thế mà Trịnh Công Sơn đã, không hề có ý định viết bài cuối cùng bởi vì ông cho rằng, thời điểm cuối cùng, là thời điểm mình không thể nào bắt gặp được. Nếu vì một lý do nào đó, ông bị bắt buộc phải lên đường, để viết về những ý nghĩ cuối cùng thì ông tin rằng, đó là lúc ông sẽ cố gắng cởi trói ông thoát khỏi mọi hệ lụy của đời, để sống chứ không cần phải nói thêm một điều gì nữa.
Bài hát cuối cùng của ông, sẽ chỉ mãi mãi là một giấc mơ. Một giấc mơ buồn thảm mà, ông nghĩ rằng cần phải quên đi để mọi thứ biên giới trong cuộc đời trở thành vô nghĩa. Để nó sẽ không còn tồn tại như một lời thách thức nữa.
Kết thúc bài viết của mình, ông nhấn mạnh: “Bài hát đầu tiên và bài hát cuối cùng, ngẫm ra cũng chỉ là những bèo bọt vô hình tướng. Chúng ta vui chơi với nó và chúng ta quên đi. Có kẻ gieo cầu, có người nhặt được. Kẻ nhặt được không chắc là vui mãi. Kẻ không được cũng chẳng nên lấy đó làm điều. Hơn ba mươi năm trước có một bài hát đầu tiên, như một trái cầu gieo, có chắc gì hạnh phúc. Không chắc gì hạnh phúc thì tại sao lại cần phải có bài hát cuối cùng?”
Nhiều người nói, Trịnh Công Sơn không phải là người đầu tiên gieo cầu nhắm vào Thanh Thúy. Ngoài ông, với mối tình đơn phương, còn có nhiều nghệ sĩ khác nữa. Trong số ấy, ồn ào, sôi nổi và cũng bền bỉ nhất là tài tử Nguyễn Long, tự Long Đất…
Tôi không biết Giáo sư Nguyễn Văn Trung có chia sẻ quan niệm không cần phải có thêm cuộc gieo cầu… cuối cùng, như minh xác của nhạc sĩ Trịnh Công Sơn?

Nguyễn Long và mối tình một chiều với Thanh Thúy
Trong số hàng chục nghệ sĩ từng bày tỏ tình yêu một chiều với Thanh Thúy, dư luận ghi nhận một người “can đảm” đi hết “con đường tình… một chiều” dài thăm thẳm của mình, mà không hề có khoảnh khắc ngập ngừng nào, đó là tài tử Nguyễn Long.
Nguyễn Long (5), trong một hồi ký được Tuần báo Thế Giới Nghệ Sĩ, bộ cũ, số 36, đề Tháng Sáu, 1995, đăng lại, Nguyễn Long cho biết, trước khi thực hiện phim Thúy Đã Đi Rồi vào cuối năm 1961, ông đã có tất cả ba vở kịch, mà Thanh Thúy là linh hồn chính…
Đó là các vở kịch “Ghen”, được diễn tại rạp Cathay và sân khấu Anh Vũ – với Xuân Dung đóng vai Thanh Thúy, hợp cùng các diễn viên Ba Bé, Linh Sơn, Nguyễn Long… vào đầu năm 1960.
Vở kịch thứ hai, nhan đề Khi Người Ta Yêu Nhau, diễn tại rạp Hưng Đạo, cũng trong năm 1960 – với Kim Cương nhập vai Thanh Thúy, cùng Túy Hoa, Bảy Xê, Ngọc Phu, Ba Bé và Nguyễn Long.
Vở kịch thứ ba, có tên Tan Tác, cũng vẫn Kim Cương vai Thanh Thúy, cùng với Vũ Đức Duy, Vân Hùng, Túy Hoa, và Nguyễn Long…
Không biết có phải vì thấy rằng, ba vở kịch viết riêng cho “Tiếng hát liêu trai” vẫn chưa đủ “nặng ký”, để Thanh Thúy chú ý tới tình yêu cuồng nhiệt của mình, nên Tháng Mười Một, 1961, Nguyễn Long viết, và quay cuốn phim Thúy Đã Đi Rồi; với Minh Hiếu vai Thanh Thúy, Yến Vĩ vai Thanh Mỹ (em ruột Thanh Thúy?); và Mai Trường, Trần Văn Trạch, Ánh Hoa cùng rất nhiều nghệ sĩ khác, như Hùng Cường, Minh Chí, Ngọc Hương, Hề Minh…
Được biết, nội dung cuốn phim mô tả một ông đạo diễn yêu say mê một ca sĩ, nhưng không được đáp lại. Ông bị ám ảnh tới mức thấy thiếu nữ nào, ông cũng liên tưởng tới người ca sĩ mà ông đã đem lòng tương tư đêm, ngày. Cuối cùng, trong một phút bốc đồng, mất kiểm soát, người đạo diễn kia đã bắt cóc và giết chết cô ca sĩ. Tuy nhiên, không nhờ thế mà ông ta xóa nhòa được hình ảnh cô ca sĩ trong tâm tưởng. Cuối cùng, đạo diễn nọ, đã chọn khung cảnh trước nhà thờ Đức Bà Sài Gòn, để tự vẫn.
Phải chăng vì tính bi thảm quá dữ dội của nội dung phim, nên phim Thúy Đã Đi Rồi bị cấm tới năm 1964, mới được phép công chiếu. (?) Khi đó, Nguyễn Long đã lập gia đình. Do đấy, vì tế nhị, Nguyễn Long kể rằng: “Phim chỉ được chiếu một lần ở Sài Gòn và một lần ở Huế! Nhưng dù sao thì cuốn phim cũng đã được biết đến một cách rộng rãi trong quần chúng.”
Vẫn theo Nguyễn Long thì sự phổ cập của cuốn phim, sớm trở thành một “cách nói” mới. Đó là khi tìm bạn, không gặp, người tìm đã để lại lời nhắn rằng “Thúy Đã Đi Rồi!”
Tài tử Nguyễn Long cũng ghi thêm, thời gian kể trên là thời gian Thanh Thúy nghỉ hát để lo chuyện gia đình: cô thành hôn với Đại úy Không quân Ôn Văn Tài, năm 1963…
Năm 1967, “Tiếng hát liêu trai” trở lại với không khí phòng trà Ritz ở đường Trần Hưng Đạo, không thành công. Nửa chừng, Thanh Thúy trở lại Cần Thơ, là căn cứ không quân, Ôn Văn Tài phục vụ, thời đó.
Tới cuối năm 1972, một lần nữa, Thanh Thúy trở lại Sài Gòn, hát cho phòng trà Quốc Tế, đường Lê Lợi, với ban nhạc Ngọc Chánh. Lần này, “Tiếng hát lúc không giờ” được mô tả là thành công, ngoại lệ.
Nguyễn Long kể: “Sự kỳ diệu hiếm hoi đã xảy đến cho Thanh Thúy khi tiếng hát của Thúy lại vang xa, vang xa hơn, và vẫn thu hút, vẫn quyến rũ như ngày nào…”
Trong hồi ký của mình, Nguyễn Long cũng kể chuyện đầu năm 1963, ca sĩ Duy Khánh (một trong những nghệ sĩ cũng từng âm thầm theo đuổi Thanh Thúy nhiều năm trước), tổ chức một chương trình đại nhạc hội ở ba nơi: Huế, Đà Nẵng và, Quảng Trị…(6)
Phần kịch, Duy Khánh chọn diễn mấy vở của Nguyễn Long cùng với ban nhạc Thăng Long, Thanh Thúy, Mai Vi, Khánh Băng và, Nguyễn Long.
Sau đêm hát cuối cùng ở Quảng Trị, hôm sau, mọi người trở lại Đà Nẵng, để lên máy bay về Sài Gòn. Theo sắp xếp thì trên chiếc citroen từ Quảng Trị về Đà Nẵng, sẽ có vợ chồng Nguyễn Long, Hoài Bắc, Thanh Thúy và Duy Khánh. Tuy nhiên, để bày tỏ tình yêu cũng như cho thấy sự… can đảm vì tình yêu, Duy Khánh nhất định không đi xe hơi mà, một mình chạy chiếc vespa về Đà Nẵng.
Đường xa có tới hàng trăm cây số, theo Nguyễn Long đường đi có nhiều đoạn khúc khuỷu, ngoằn nghèo, lên, xuống đèo rất nguy hiểm… Nhưng Duy Khánh vẫn lái chiếc vespa như bay trước mũi xe citroen…
Nguyễn Long viết: “Nhiều khi anh lại cố tình lái sát bờ đèo để tỏ cho người ngồi trong xe biết là anh đang rất buồn và sẵn sàng… được chết. Những trường hợp như thế hay với bất cứ trường hợp nào khác, Thanh Thúy cũng chỉ mỉm cười…”
Sự việc diễn ra ngay trước mắt này, khiến Nguyễn Long chợt nhìn lại mình. Họ Nguyễn nhớ, ông từng có 400 đêm ngủ trước cửa nhà Thanh Thúy. Ông cũng có chín lần lái xe đâm thẳng vào quán Anh Vũ, lúc Thanh Thúy, có mặt, trình diễn. Ngoài ra, trong thời gian quay phim Thúy Đã Đi Rồi ở Huế, thình lình nhận được điện thoại của “Tiếng hát liêu trai”, Nguyễn Long đã lái xe từ lúc 5 giờ sáng ở Huế, để có mặt tại Sài Gòn 9 giờ tối ở phòng trà Tự Do…
Ông tâm sự: “Rất nhiều lần tôi tỏ ra là một cây si… ‘nặng ký,’ nhưng cũng chỉ nhận được nụ cười, như nụ cười Thanh Thúy đã dành cho Duy Khánh mà thôi.”
Sau biến cố 1975, mãi tới Tháng Năm, 1981, người thực hiện, và đóng vai chính trong cuốn phim Thúy Đã Đi Rồi, mới gặp lại Thanh Thúy ở San Francisco (sau hơn 10 tháng ở trại đảo). Nguyễn Long viết: “Gặp lại dĩ vãng thần tiên của mình và thấy Thanh Thúy hát trên sân khấu San Francisco, tôi thấy Thúy muôn đời không thay đổi. Thúy là người ca sĩ, bạn hiền nhất của nền Tân nhạc Việt Nam. Giọng hát của Thúy vẫn như xưa. Có phần chắc hơn, già dặn và rung cảm hơn. Thúy là một trong số ít ca sĩ vẫn giữ được giọng hát của mình, không sút giảm dù qua biết bao thăng trầm của đất nước và cá nhân…”

Thanh Thúy, tiếng hát khói sương
Ở một góc độ khác, góc độ thi sĩ và đồng thời là Giáo sư Triết, nhà thơ Nguyên Sa cũng đã có bài nhận định về trường hợp ngoại lệ của tiếng hát Thanh Thúy.
Mở đầu bài viết, nhà thơ Nguyên Sa nhắc tới bốn câu thơ tuyệt tác của Hoàng Trúc Ly, dành cho Thanh Thúy. Kế tiếp, ông thuật lại cuộc đối thoại giữa ông và tác giả bài “Thanh Thúy, Tiếng Hát Lúc Không Giờ” của nhà văn Mai Thảo:
“Tôi hỏi Mai Thảo:
– Tại sao tiếng hát lúc không giờ?
Mai Thảo trả lời bằng những tiếng ngắn:
– Vì muộn.
Tôi biết ngôn ngữ với Mai Thảo, là mật ngữ, lặng im là siêu ngữ, phối hợp mật ngữ với siêu ngữ mới làm mở tung ra được cánh cửa lớn của kỳ ngữ.
Bạn tôi đã cất tiếng:
– Là muộn màng…”
Tác giả “Tuổi Mười Ba” viết, ông hiểu “Tiếng hát khói sương” trong ngôn ngữ ẩn và hiện của tác giả Tháng Giêng Cỏ Non, có mong manh, có mờ khuất, có âm thanh thực tại bao phủ trong âm thanh phi thực, có nữ ca sĩ và cánh bướm bay chập chờn trong đêm.
Không thể phân định Thanh Thúy đang bằng giọng hát, đang bay đi trong đêm, trở mình, chiếc áo đã thành cánh bướm trong khói, trong sương, hay chính cánh bướm, từ khói, từ sương, đang lần theo hơi thở trở về làm thành tiếng hát tuyệt vời, người nữ ca sĩ tuyệt vời đang lãng đãng trôi.
Một tiếng hát chuyên chở được trọn vẹn cả mộng và thực như thế, tất yếu phải có một thời điểm của nó. Có thời điểm của mặt trời mọc, có thời điểm của mặt trăng lên, có thời điểm của hoa quỳnh, có thời điểm của dạ lan.
Không phải giờ nào ngắm trăng cũng được, không phải giờ nào xem hoa quỳnh cũng được, không phải giờ nào nghe Thanh Thúy cũng được. Phải nghe vào lúc đó, lúc khuya, lúc muộn, lúc thời điểm của “Tiếng hát lúc không giờ”, lúc thời gian và không gian gồm thâu trong tà áo và hơi thở của “Tiếng hát khói sương”.
Tác giả của “Áo Lụa Hà Đông” kể lại thời ông làm băng nhạc ở xứ người, những năm thuộc thập niên 1980, 1990, với nhạc sĩ Lê Văn Thiện, phụ trách phần hòa âm. Ông nói với họ Lê rằng, ông muốn tiếng hát Thanh Thúy mở đầu cho cuốn băng có nhiều tiếng hát. Mặc dù ông biết, bình thường nhà sản xuất luôn đợi tới khi mọi tiếng hát đã thu xong, đã được nghe đi, nghe lại nhiều lần rồi mới chọn tiếng hát mở đầu cho cả cuộn băng. Ông kể, ông không ngờ, nhạc sĩ Lê Văn Thiện, đồng ý ngay, không chút thắc mắc.
Với tác giả “Tháng Sáu Trời Mưa”, tiếng hát Thanh Thúy là tiếng hát tổng hợp được khói và sương, thực và phi thực, cuộc đời và mộng ảo, hiện tại và sự trôi chảy của thời gian, có và không, còn gì phải nghi ngờ, có gì phải thắc mắc!
Người thi sĩ của chúng ta viết: “Thực mà phi thực. Như khói, như sương. Mong manh như con chim nhạn bay trong dòng sông sương mù, Thanh Thúy mỏng manh, đôi mắt to đen sâu thẳm, mái tóc đen chảy xuống, hai bờ vai chao đảo, giọng hát cất lên mà như nói, ca mà như tâm sự, âm thanh mà như ve vuốt, điệu láy, như đầu đã tựa vào vai, tiếng ngân làm thành sợi tóc lùa vào trên ngực. Chính trong tất cả những ý nghĩa đó, có thêm sự hiện diện của dòng sông đam mê, có cộng với ý thức định mệnh, Nguyễn Văn Trung gọi tiếng hát Thanh Thúy là ‘Tiếng hát liêu trai’ Tuấn Huy gọi là ‘Tiếng sầu ru khuya’…”
Tiếp tục dòng cảm xúc cực tả, Giáo sư Triết Nguyên Sa/Trần Bích Lan thấy mái tóc đen, dài, đổ xuống một bên vai như dòng thác lũ. Một đôi mắt mở to hồn nhiên. Một khóe môi cười… Hai bàn tay nâng niu tà áo. Thanh Thúy đó. Người con gái hai mươi mốt mùa xuân đó. Nàng ngồi kia. Lọ hoa cẩm chướng ngăn đôi giữa thi sĩ và ca sĩ. Mùi hoa phảng phất thơm. Không khí mơ màng như có hương trầm…
Thi sĩ ngước lên tấm hình thân mẫu Thanh Thúy. Vòng nhang cuộn tròn… Ông nhớ nhà văn Tuấn Huy, người cũng có ấn tượng mạnh mẽ về vòng nhang cuộn tròn, thắp lên, tưởng nhớ thân mẫu Thanh Thúy qua đời một tháng trước đấy. Cơn đau của bà mẹ hiền đã làm thành động lực đẩy Thanh Thúy ra trước tiền trường sân khấu.
Thanh Thúy nói với thi sĩ rất đơn giản, chân tình: “Em bắt đầu hát ở phòng trà Văn Hoa, trước là Việt Long, cũng gọi là phòng trà Đức Quỳnh, chủ là bà Việt Long, đường Cao Thắng, năm 1959.”
Thi sĩ hỏi: “Năm ấy em bao nhiêu tuổi?”
Cô nói: “Em mười lăm tuổi, anh. Em muốn kiếm tiền để nuôi và lo thuốc thang cho mẹ em… Văn Hoa hồi ấy có Lưu Bình trống. (Sau Lưu Bình lấy con gái bà Việt Long). Ở đó còn có Lê Đô, trompette, có Chấn, piano. Bài hát đầu tiên em hát là bài ‘Nhạt Nắng’ của Xuân Lôi. Một bài tango…”

Với nhà thơ Nguyên Sa thì, tango hay rumba, bolero, boston hay valse, paso hoặc nhạc khúc miền Trung đều biến giọng hát Thanh Thúy thành “Giọng hát ma túy”. Nghe là phải thích. Thích là phải mê, phải ghiền. Ông không biết giữa hai chữ “Ghiền”  “Mê” chữ nào mãnh liệt hơn.
Nhưng, theo giáo sư triết này thì “mê” nhiều phần tâm lý hơn sinh lý, thuộc về tinh thần nhiều hơn phần thân xác. “Ghiền” thuộc về sinh lý nhiều hơn tâm lý, nó nghiêng về thân xác nhiều hơn tâm hồn. Nhiều ràng buộc, nhiều xiềng xích hơn.
Giáo sư Nguyễn Văn Trung cũng nghĩ đến xiềng xích, ràng buộc, rõ ràng có định mệnh, chắc chắn không thể vượt thoát, lại còn có cả Đông phương huyền hoặc và, siêu nhiên với “Tiếng hát liêu trai”.
Thi sĩ của chúng ta cất tiếng hỏi: “Người thanh niên nào không muốn lạc vào thiên đường ấy, thiên đường đột nhiên hiện ra, ghì chặt lấy thân thể, cuốn chặt tứ chi, hút lấy trong rạo rực cả tinh túy của thân xác và linh hồn, cho mà dâng hiến, hân hoan, mộng thôi mà điên cuồng, mà thực không còn thực. Liêu trai. Thiên đường. Thiên đường đó: Tiếng hát liêu trai.”
Trước khi chấm dứt bài viết, nhà thơ Nguyên Sa đã làm một sơ kết về những bài viết, những ngợi ca chưa từng đến với bất cứ một tiếng hát nào khác, ngoài Thanh Thúy. Như Nguyễn Văn Trung, Mai Thảo, Tuấn Huy, Nguyễn Long (không kể các nhạc sĩ)… Vẫn theo ông, hiện tượng này cho thấy Thanh Thúy chính là người yêu trong mộng của cả một thế hệ, cảm xúc của cả một thời đại, phản ảnh cái khách quan mênh mông, trong cái chủ quan riêng lẻ sống thực và, chân thành.
Tác giả bài thơ nổi tiếng “Nga” xác nhận: “Hẳn nhiên những ca khúc viết tặng cho ‘Tiếng hát lên trời’ còn nhiều hơn nữa. Trịnh Công Sơn trước những ngày Văn khoa, trước những ngày Huế, Sài Gòn, Hà Nội, Trịnh Công Sơn những ngày tháng đầu đời, đã viết ‘Ướt Mi’ cho Thanh Thúy. Trịnh Công Sơn nói với Thanh Thúy sẽ tặng Thanh Thúy trước sau hai ca khúc, ‘Ướt Mi’ ca khúc đầu tay của người nhạc sĩ lừng lẫy và ca khúc cuối cùng của đời anh. Tình cảm vời vợi. Tình cảm vời vợi bao phủ cả một thế hệ khi tiếng hát liêu trai, tiếng hát ma túy, tiếng hát khói sương cất lên. Làm sao không vời vợi? Làm sao không yêu?” (Trích Nguyên Sa, Nghệ Sĩ Việt Nam ở Hải Ngoại, tập 1)
Câu hỏi trước khi ra khỏi bài viết của thi sĩ Nguyên Sa, tới hôm nay, vẫn còn được một số người nhắc tới, về Thanh Thúy, như một hiện tượng gom được cả thực và phi thực. Cả có và không trong một tiếng hát. Một con người…

Du Tử Lê

Chú thích:
(1) Có bản chép “Lắng nghe da thịt tan tành xưa sau.”
(2) Theo tư liệu và được sự cho phép của Tuần báo Thế Giới Nghệ Sĩ số 43, đề ngày 4 Tháng Mười Hai, 2015, chủ đề “Nữ danh ca Thanh Thúy.”
(3) Thanh Thúy sinh năm 1943 tại Huế. Đi hát từ năm 1959. Năm 1961, cô được chọn là “Hoa hậu nghệ sĩ”, do Bác sĩ Trương Quang Hớn tổ chức ở phòng trà Anh Vũ. Đồng thời cô cũng được coi là nữ ca sĩ ăn khách nhất trong ba năm liên tiếp.
(4) Đặng Thế Phong sinh năm 1918, mất năm 1942. Ca khúc “Giọt Mưa Thu” là sáng tác cuối cùng của ông, viết vào những ngày cuối đời trên giường bệnh năm 1942. Ban đầu bản nhạc mang tên “Vạn Cổ Sầu”, nhưng theo ý một vài người bạn, ông đặt lại là “Giọt Mưa Thu” cho bớt sầu thảm. Một số tài liệu xưa từng ghi, ca khúc này có sự tham gia viết lời của cố nhạc sĩ Bùi Công Kỳ (1919-1985). (Nguồn: Bách Khoa Toàn Thư – Mở).
(5) Tài tử Nguyễn Long tên thật Nguyễn Ngọc Long, sinh ngày 2 Tháng Ba, 1934, tại Hải Phòng. Ông mất ngày 2 Tháng Mười Một, 2009, ở thành phố Seattle, Washington. (Nguồn: Bách Khoa Toàn Thư – Mở).
(6) Ca sĩ kiêm nhạc sĩ Duy Khánh sinh năm 1936 tại Quảng Trị, mất năm 2003 ở miền Nam California. Ông được coi là một trong “Tứ trụ Nhạc vàng” thời kỳ đầu. Ba người kia là Nhật Trường, Hùng Cường và Chế Linh. (Nguồn: Bách Khoa Toàn Thư – Mở).
* * *
Mời nghe hai bản nhạc xưa gắn liền với tên tuổi Thanh Thúy:
* Ướt Mi. Sáng tác: Trịnh Công Sơn. Trình bày: Thanh Thúy
* Thúy Đã Đi Rồi. Sáng tác: Y Vân. Trình bày: Hùng Cường

Sunday, September 22, 2024

Hôm nay ngày Chủ Nhật 22 tháng 9 năm 2024 bắt đầu cho mùa Thu

Mùa Thu Qua Thi Ca

Khí hậu ở Hoa Kỳ thay đổi rõ rệt trong vòng hơn một tháng nay, trời mưa nhiều cùng với những cơn gió lành lạnh bắt đầu thổi về báo hiệu thu sang. Lại một lần nữa mùa thu đang trở về với vạn vật. Lại một lần nữa người Việt ly hương nhìn cảnh mùa thu nơi xứ người mà lòng bồi hồi nhớ đến những mùa thu cũ nơi quê hương mình. Ở Hoa Kỳ, cây cối vào mùa thu thật vô cùng lộng lẫy. Khi mà những ngọn gió thu bắt đầu thổi về thì lá rừng cũng bắt đầu thay đổi màu sắc. Chỉ trong vòng vài ngày, hàng cây xanh bên đường bỗng đổi ra màu vàng óng ánh, rồi cả một khu công viên cũng vàng rực lên. Nhìn lên những vùng đồi núi bao la, trùng trùng điệp điệp cũng vàng lên một màu vàng rực rỡ… Cho đến khi mặt đất trải đầy lá vàng, cây cối trơ cành khẳng khiu báo hiệu Nàng Thu cất bước ra đi nhường chỗ cho một mùa đông lạnh lẻo thê lương. Nhìn cảnh thu nơi xứ người mấy ai trong chúng ta chẳng thấy lòng nao nao nhớ đến những mùa thu cũ năm nào ở quê nhà. Mơ về những mùa thu dĩ vãng, ta chợt bắt gặp nỗi sầu riêng qua những thu khúc buồn nhất, tha thiết nhất.

Mùa Thu ở Việt Nam ta không rực rỡ như mùa Xuân, không gay gắt, oi bức như mùa Hạ, không tàn tạ ủ rũ như mùa Đông. Thu Việt Nam nhẹ nhàng, mơ hồ, mênh mông, bảng lảng. Cái se sẽ lạnh của gió thu, cái trong vắt của nước thu, cái xào xạt của lá thu, cái huyền ảo của trăng thu, cái bảng lảng của trời thu như gieo vào lòng người biết bao nỗi buồn không tên nên đã làm tốn bao nhiêu giấy mực, chữ nghĩa của các văn nhân, thi sĩ. Người ta phong phú hóa đề tài mùa thu qua lá thu, trăng thu, mây thu, mưa thu, trời thu, ý thu , hồn thu, tình thu… Cho nên đa số các nhà thơ, người nào cũng có mộ ít vần thơ rên rỉ về mùa thu và những giọng rên rỉ của họ đã làm giàu thêm cho kho tàng văn hóa Việt Nam ta:

Mở đầu cho tác phẩm “Cung Oán Ngâm Khúc”, Ôn Như Nguyễn Gia Thiều đã dùng “gió vàng”, tức gió thu để báo hiệu thảm trạng cô đơn của nàng cung nữ không còn được nhà vua đoái tưởng. Một giai nhân sắc nước hương trời được nhà vua tuyển vào cung cấm những tưởng duyên may lại gặp vận rủi khiến cuộc đời nàng hoàn toàn bị vây phủ bởi thời gian chán ngán, não nề và không gian với gió vàng hiu hắt:

Trải vách quế gió vàng hiu hắt,
Mảnh vũ y lạnh ngắt như đồng.
Oán chi những khách tiêu phòng,
Mà xui phận bạc nằm trong má đào!

Khi ánh nắng gay gắt của mùa hè dịu lại, trên nền trời trong thoáng vài sợi mây nhẹ mơ hồ và gió se sẽ lạnh là báo hiệu thu về. Thu Việt Nam về mơ màng, nhẹ nhàng như nàng thục nữ yểu điệu khiến lòng thi nhân cảm thấy bâng khuâng, ngỡ ngàng:

Chao ôi! Thu đã đến rồi sao?
Thu trước vừa qua mới độ nào!
Mới độ nào đây hoa rạn vỡ,
Nắng hồng choàng ấp dãy bàng cao.

(Chế Lan Viên)

Hoặc nhìn lên nền trời, bỗng dưng bắt gặp những áng mây lang thang lòng tự nhiên thấy buồn buồn nhớ lại buổi chia ly vào mùa thu năm nào mà lòng ngậm ngùi, nuối tiếc. Buổi chia ly năm ấy là cả một trời thu buồn trong cặp mắt giai nhân và trong trái tim thi sĩ:
Hôm nay có phải là thu?
Mây năm xưa đã phiêu du trở về.
Cảm vì em bước chân đi,
Nước nghiêng mắt ngọc lưu ly phớt buồn

(Đinh Hùng)
Hay ngồi ở bến đò vào một chiều thu nhạt nắng, trông theo ngọn gió thổi qua rừng làm rơi rụng những chiếc lá mùa thu gợi cho viễn khách một nỗi buồn bâng quơ. Bỗng đâu đây văng vẳng lời ca réo rắt nghe rụng rời cõi lòng ai, nhất là cõi lòng của viễn khách lỡ chuyến đò ngang vào một chiều thu:
Mùa thu đến chậm như chưa đến,
Lá vội rơi theo gió vội vàng.
Sương đã dâng lên chiều lắng xuống,
Bến đò đã tắt chuyến sang ngang.

(Nguyễn Bính)

Thu âm u, buồn ảm đạm! Những cây liễu đứng đìu hiu như những nàng cung nữ thời xa xưa. Chua xót chất chứa đầy trong tim, nước mắt đã khô cạn bờ mi mà thu cứ dửng dưng không biết lòng người đang mang một tâm sự não nề:
Rặng liễu đìu hiu đứng chịu tang,
Tóc buồn buông xuống lệ hàng ngàn.
Đây mùa thu tới, mùa thu tới,
Vá áo mơ phai dệt lá vàng.

(Xuân Diệu)

Thu mênh mông khắp không gian, thu bảng lảng khắp núi rừng. Chỉ cần một cơn gió thoảng, một đám mây trôi, một chiều lá rụng với nắng vàng hiu hắt cũng đủ gieo vào lòng thi nhân nỗi buồn tỉ tê não nề. Chúng ta hãy lắng nghe tiếng thở dài của nhà thơ vào một chiều thu:
Bỗng dưng buồn bã không gian,
Mây bay lũng thấp giăng màn âm u.
Nai cao gót lẫn trong mù,
Xuống rừng nẻo thuộc nhìn thu mới về.
Sắc trời trôi nhạt dưới khe,
Chim bay, lá rụng cành nghe lạnh lùng.
Sầu thu lên vút song song,
Với cây hiu quạnh, với lòng quạnh hiu.
Non xanh ngây cả buổi chiều,
Nhân gian e cũng tiêu điều dưới kia.

(Huy Cận)

Còn trăng thu mờ ảo làm tăng nỗi cô đơn trong lòng chinh phụ:
Em không nghe mùa thu,
Dưới trăng mờ thổn thức?
Em không nghe rạo rực,
Hình ảnh kẻ chinh phu.
Trong lòng người cô phụ?
Em không nghe rừng thu,
Lá thu kêu xào xạc.
Con nai vàng ngơ ngác,
Đạp lê lá vàng khô?

(Lưu Trọng Lư)

Thu ở cảnh vật, thu ở thiên nhiên, thu ở ngoài trời nhưng thực ra thu đã ở trong lòng người. Cho nên lòng người cũng rung với gió, mơ theo trăng và vơ vẫn cùng mây:
Suối trời hôm ấy thê lương quá,
óc liễu bờm xơm, sóng vỗ hồ.
Mây rối trên trời, cây rối lá,
Giường cô thôn nữ gối chăn xô.
Nơi tôi còn ít lá lòng,
Chiều nay rơi nốt vào trong lá rừng.

(Hồ Dzếnh)

Mây buồn giăng giăng khắp nẻo, trời thu u ám, ảm đạm phủ một màu tang thương. Trong bốn mùa, chỉ có mùa thu mới mang lại cho thi nhân cái thú đau thương nên nhà thơ đã chọn mùa thu để đi thăm mộ người yêu:
Trời cuối thu rồi em ở đâu?
Nằm trong đất lạnh chắc em sầu.
Thu ơi đánh thức hồn ma dậy,
Tôi muốn vào thăm nấm mộ sâu.

(Đinh Hùng)

Cho đến hình ảnh trong bốn câu thơ dưới đây là cả một tâm sự. Mùa thu có gió thu sớm thổi nhẹ như cái nhẹ nhàng của cuộc gặp gỡ lần đầu tiên giữa em và tôi. Dù em chưa nói nhưng tôi đã hiểu thầm và hình như em đã thầm nói qua ánh mắt, qua cái nhìn. Cho nên tôi đi lang thang vào những phố không đèn tìm lại dư vị của hương thầm khi mới quen, xem lòng mình và ý người. Tình yêu đến nhẹ nhàng như thế và chỉ có thể đến ở một xứ sở mặn mà tình cảm là quê hương Việt Nam ta:
Từ giã hoàng hôn trong mắt em,
Tôi đi tìm những phố không đèn.
Gió mùa thu sớm bao dư vị,
Của chút hương thầm khi mới quen.

(Đinh Hùng)

Rồi nhà thơ ngơ ngác đi giữa mùa thu, nghe từng chiếc lá thu rơi mà tâm hồn bàng hoàng bắt gặp thương nhớ của mùa thu cũ. Mơ về mùa thu dĩ vãng, nhà thơ đưa ta về quá khứ lãng mạn với một trời sầu thương, oan khổ:
Gió đưa xác lá bên đường,
Thu sang nhuộm cả sầu thương một trời.
Sầu thương quyện lấy hồn tôi,
Đêm qua ngồi đọc thơ người xa xăm.
Chuyện xưa hồ lãng quên rồi,
Bỗng đâu xem được thơ người vườn Thanh.
Bao nhiêu oan khổ vì tình,
Cớ sao giống hệt chuyện mình ngày xưa.
Phải chăng mình có nên ngờ,
Rằng người năm ấy bây giờ là đây?

(Nguyễn Bính)

Đêm thu, trăng thu mơ màng, gió thu lãng mạn. Gió trăng hòa hợp quyến luyến quyện lấy nhau, gió chừng như nín thở đỡ vầng trăng lạc giữa trời thu. Gió còn ve vuốt ngàn hoa nội cỏ, gió lê thê trên hè phố phớt nhẹ lên mái tóc thề, gió leo qua cửa sổ sờ sẫm gối chăn:
Bóng nguyệt leo song sờ sẫm gối,
Gió thu lọt cửa cọ màn chăn.

Rồi gió khe khẽ lọt phòng the, gió nhè nhẹ hôn lên má người thiếu phụ đang say ngủ giữa đêm khuya khiến nàng giật mình tỉnh giấc, bẽn lẽn thẹn thùng thì thầm than:
Vô tình để gió hôn lên má,
Bẽ lẽn làm sao lúc nửa đêm.
Em sợ lang quân em biết được,
Nghi ngờ cho cái tiết trinh em.

(Hàn Mặc Tử)

Thu về với vạn vật, nhìn những chiếc lá thu từ hàng xóm bay sang khiến người thiếu phụ bỗng sợ thời gian, lo tuổi xuân qua mau mà quên lời hẹn ước cùng ai năm nào:
Trận gió thu phong rụng lá vàng,
Lá bay hàng xóm lá bay sang.
Vàng bay mấy lá năm già nữa,
Hờ hững ai xuôi thiếp phụ chàng.

(Tản Đà)

Trời thu bảng lảng, mây thu lang thang, trăng thu mơ màng, gió thu nhẹ nhàng sao nỡ để duyên nàng dở dang, bẽ bàng?
Trời thu ảm đạm một màu,
Gió thu hiu hắt thêm sầu cô miên.
Trăng thu bóng ngã bên thềm,
Tình thu ai để duyên em bẽ bàng!

(Tương Phố)

Suối thơ của nữ sĩ nhẹ nhàng như suối mùa thu, đẹp như một cánh hồng trong vườn hoa văn học!

Kẻ phụ người yêu, kẻ duyên bẽ bàng. Bể ái ân ngàn trùng không tát cạn. Họ là ngững kẻ đang lặn ngụp trong những lượn sóng tình mà tâm tư bầm dập, ngổn ngang. Ôi trần gian sao nhiều đau khổ. Vào đêm thu, bầu trời trong vắt, trăng sao vằng vặc, Chị Hằng đương lom khom dòm xuống trần gian nhiều khổ đau mà lòng nao nao, xao xuyến… bỗng có tiếng thở than chán ngán từ trần thế vọng về:
Cuối thu sen nát lòng dâu bể,
Ngày muộn chuông đau chuyện đá vàng.
Chán ngán ân tình sầu chất ngất,
Già theo nhân thế hận man man.

(Thanh Tâm)

Chưa hết! Cái oan khổ vì tình chưa hết! Đây, ta hãy lắng nghe cuộc tình của T.T.Kh. Cuộc tình của nữ sĩ cũng bắt nguồn từ một mùa thu qua bài thơ có cái tiêu đề ngồ ngộ:
“Hai Sắc Hoa Ti-Gôn”. Nhưng đằng sau cái ngồ ngộ đó chất chứa cả một khối tình đầy những giọt lệ mùa thu:
Một mùa thu trước mỗi hoàng hôn,
Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn.
Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc.
Tôi chờ người đến với yêu đương…

Rồi:

… Tôi nhớ lời người đã bảo tôi,
Một mùa thu trước rất xa xôi.
Đến nay tôi hiểu thì tôi đã,
Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi.
Tôi sợ chiều thu phớt nắng mờ.
Chiều thu hoa đỏ rụng chiều thu,
Gió về lạnh lẽo chân mây vắng.
Người ấy bên sông đứng ngóng đò.
Nếu biết rằng tôi đã có chồng,
Trời ơi! Người ấy có buồn không?
Có thầm nghĩ đến loài hoa vỡ,
Tựa trái tim phai, tựa máu hồng?

Và:

… Anh ạ! Tháng ngày xa quá nhỉ,
Một mùa thu trước, một lòng đau…

Bởi vậy, tình, nhìn từ xa như là hạt kim cương lóng lánh với muôn màu sắc quyến rũ nhưng khi đến gần chỉ là những giọt nước mắt. Thế nhưng văn thi sĩ vốn là những kẻ đa sầu, đa cảm, đa tình, đa tứ lại cứ thích đi tìm những giọt nước mắt qua tình yêu, thích ca tụng tình yêu dang dở, thứ tình không còn giọt nước mắt để khóc hay tình đã giết chết con tim.
 
 

Cây Bàng Cuối Thu

Thu đi trên những cành bàng
Chỉ còn hai chiếc lá vàng mà thôi.
Hôm qua đã rụng một rồi
Lá theo gió cuốn ra ngoài sơn thôn.
Hôm nay lá thấy tôi buồn
Lìa cành theo gió lá luồn qua song.
Hai tay ôm lá vào lòng
Than ôi chiếc lá cuối cùng là đây!
Quạnh hiu như tấm thân này
Lại âm thầm sống những ngày gió mưa...

NGUYỄN BÍNH
Ý Thu

Xuân Diệu

Những chút hồ buồn trong lá rụng
Bị nhàu ai tưởng dưới trăm chân
Bông hoa rứt cánh, rơi không tiếng
Chẳng hái mà hoa cũng hết dần

Dưới gốc, nào đâu thấy xác ve
Thế mà ve đã tắt theo hè
Chắc rằng gió cũng đau thương chứ
Gió vỡ ngoaì kia ai có nghe?

Hôm nay tôi đã chết theo người
Xưa hẹn nghìn năm yêu mến tôi
Với bóng hình xưa, tăm tiếng cũ
Cách xa chôn hết nhớ thương rồi

Yên vui xây dựng bởi nguôi quên
Muốn bước trong đơì phải dậm trên
Muôn tiếng kêu than thầm lẳng lặng
Nhưng hoa có thể cứ lâu bền

Ờ nhỉ ! Sao hoa lại phải rơi ?
Đã xa, sao lại hứa yêu hoài
Thực là dị quá mà tôi nữa!
Sao nghĩ làm chi chuyện nhạt phai?


"Thương":

áo em bay chiều phố thị
anh về thương mãi dáng Thu xưa
em đi từng bước hồn anh úa
chiếc lá nào rơi rụng cuối mùa

quán vắng như lòng anh vắng lạnh
đời không vui, rượu uống không say
vì thương áo tím nên hồn nhớ
điếu thuốc vàng tay tỏa khói bay

áo em tím vui chiều phố thị
anh về mơ tà áo ai bay
em cô chủ quán anh là khách
một chén ân tình trọn kiếp say

Lưu Trần Nguyễn

Thu về trong mắt em

Sáng tác : Phạm Mạnh Cương

Trong mắt em mùa thu về đây
Nghe nhớ thương nặng chĩu vai gầy
Làn mây tím đậm buồn đôi mi
Heo may gợi sầu chia ly
Nhắc ai xuôi ngoài vạn lý
Đôi mắt em buồn thương mùa thu
Xa vắng như một giải Ngân Hà
Câu thước giọt lệ Chức Nữ
Khóc than tình chàng Ngưu Lang
Gió thu khơi động nguồn cơn

Qua mấy năm tròn đợi chờ
Làm cho mắt hoen lệ mờ
Dĩ vãng đã chìm vào đời
Và giòng sông vắng nước truôn về khơi

Theo bóng mây thời gian dần trôi
Em nhớ ai giờ cách xa rồi
Chiều thu đến gợi sầu tiếc nhớ
Biết bao kỷ niệm xa xưa
Mắt em tan vào mùa thu

BẰNG LĂNG TRÁI MÙA

Cuối Thu rồi, chớm lạnh Đông,
Bằng lăng lại nở...tím lòng em ơi!
Ngàn xưa khoe sắc với đời,
Hè về, hoa tím thay lời ngỏ yêu.

Hương hoa đâu kể ít nhiều!
Sắc hoa nhuộm tím những điều ước mong.
Xa rồi màu tím, nhớ không?
Bằng lăng nở, gợi trong lòng nhớ thương.

Thu nay hoa nở... bất thường,
Cho mình đi lại đoạn đường Nghĩa Tân.
Thương em hoa nở thêm lần,
Cánh rơi tím đậm bước chân ngọt lành.

Tình em tím sắc trao anh,
Nồng say hương sữa, kết thành sắc - hương.
Em về tím lại nẻo đường
Thuỷ chung hương - sắc, gió sương vẫn tình!

Bỗng Dưng

Bỗng dưng trời đất thôi đỏ hạ
Chơi nhảy lò cò sang mùa thu
Nắng nhuộm sắc vàng trên mắt lá
Vàng ươm như thể những lời ru...

Bỗng dưng... mà "người ta" xõa tóc
Không có cột nhỏng nhảnh đuôi gà
Bỗng dưng... bối rối và đỏ mặt
Mỗi lần nhìn bất chợt... nhìn qua

Bỗng dưng, chẳng hiểu sao mình cứ...
Nhớ ngơ nhớ ngẩn một điều gì?
Bỗng dưng... mình thấy lòng giận dỗi
Khi người... vô tình... vụt quay đi...

Đào Phong Lan


Những khoảnh khắc Huế vào Thu

Huế vào thu khiến cho nhiều người ngỡ ngàng trước sự chuyển giao của thời tiết, một ngày ở Huế đang mưa bỗng nắng, đang nắng bỗng mưa, và rực rỡ với chiều vàng trên sông Hương.

Những ngày mùa thu ở Huế với buổi sáng mai trời mù trong sương, sông núi cỏ cây nhòe đi trong hơi nước. Và từ đây màu nắng sẽ vĩnh viễn phai dần, báo hiệu mùa thu đã về, nhưng xế trưa trời bỗng hửng lên một vài sợi nắng le lói trên tầng không, chói chang.

Huế đang vào Thu! Những bước đi vào mùa của Huế thật là lạ lùng, bất chợt, làm cho mỗi giác quan của con người cứ bối rối ngẩn ngơ. Mùa thu ở Huế không phảng phất mùa hoa sữa nồng nàn, không có gió heo may. Thu ở Huế có một chút gió, một chút nắng, một chút mưa, một chút trăng chiếu xuống để nhuộm lên dòng Hương thơ mộng với những gam màu rực rỡ. Dưới đây là những khoảng khắc Cố đô Huế vào Thu:


Những ngày mùa thu ở Huế với buổi sáng mai trời mù trong sương, sông núi cỏ cây nhòe đi trong hơi nước, dòng sông Hương đang tĩnh lặng thì bầu trời bao phủ một màu tím Huế.

Khi mặt trời hé nắng những chuyến đò mới xuôi ngược dòng Hương
Thu ở Huế thật đặc biệt, không phảng phất mùa hoa sữa nồng nàn, không có gió heo may, trời rất trong và rất xanh, một chút gió, một chút nắng, một chút mưa giăng lấp lánh như ánh bạc trên dòng Hương Giang
Sau những cơn mưa, những chùm nắng màu vàng chiếu xuống dòng Hương
Hoàng hôn trên dòng sông Hương
Thành phố đã lên đèn nhưng bầu trời chưa tắt hẳn
Trầm mặc và cô tịch những ráng chiều vàng, mỗi ngày trôi với người Huế không quá vội như không gian điềm tĩnh.

Bức tranh Huế vào Thu
Trời vào thu, trăng Huế quyến rũ và mê hoặc mọi người
 
Tím Huế

Chỉ cần chút nắng vàng phai
Và tiếng kêu xa vắng lạc loài của con ve đất
Một chút tím, một chút buồn trong mắt
Là Huế xao lòng lặng lẽ vào Thu
Huế vào Thu mà không biết mình Thu
Vì lá đỏ chút vàng mơ ai thấy
Tim tím buổi chiều mai hồng trở lại
Vẫn xanh ngời con nước Vạn Niên
Có trắng chút phôi pha thì ánh bạc Trường Tiền
Tim hé mắt mới thấy mình Tím Huế
Em mới sinh ra đã vội thành “các Mệ”
Tôn Nữ Công Tằng nên Huế là em
Tuổi hoàng thành như mầu mắt trong đêm
Nghìn phai cũ tình trang đầu chưa giở
Xa Chiêm quốc thuở “ngó tề, dị rứa!”
Mõi chân đời còn tím Huế không em.

Vàng Thu Tím Huế
Trần Kiêm Đoàn
Hai Sắc Hoa Tigôn

T.T.K.H.

Một mùa thu trước mỗi hoàng hôn
Nhặt cánh hoa rơi chẳng thấy buồn
Nhuộm ánh nắng tà qua mái tóc
Tôi chờ người đến với yêu đương

Người ấy thường hay ngắm lạnh lùng
Dải đường xa vút bóng chiều phong,
Và phương trời thẳm mờ sương, cát
Tay vít dây hoa trắng chạnh lòng

Người ấy thuờng hay vuốt tóc tôi
Thở dài trong lúc thấy tôi vui
Bảo rằng: "Hoa, dáng như tim vỡ
Anh sợ tình ta cũng thế thôi!"

Thuở ấy nào tôi đã biết gì
Cánh hoa tan tác của sinh ly
Cho nên cười đáp: "Màu hoa trắng,
Là chút lòng trong chẳng biến suy!"

Đâu biết một đi một lỡ làng,
Dưới trời đau khổ chết yêu đương
Người xa xăm quá! Tồi buồn lắm,
Trong một ngày vui pháo nhuộm đường...


Từ đấy, Thu rồi, Thu lại Thu...
Lòng tôi còn giá đến bao giờ
Chồng tôi vẫn biết tôi thương nhớ
Người ấy, cho nên vẫn hững hờ

Tôi vẫn đi bên cạnh cuộc đời
Ái ân lạt lẽo của chồng tôi,
Mà từng thu chết, từng thu chết
Vẫn giấu trong tim bóng một người

Buồn quá! Hôm nay xem tiểu thuyết
Thấy ai cũng ví cánh hoa xưa
Nhưng hồng tựa trái tim tan vỡ
Và đỏ như màu máu thắm pha!

Tôi nhớ lời người đã bảo tôi
Một muà thu trước rất xa xôi..
Đến nay tôi hiểu thì tôi đã
Làm lỡ tình duyên cũ mất rồi!

Tôi sợ chiều thu nhạt nắng mờ
Chiều thu hoa đỏ rụng. Chiều thu
Gió về lạnh lẽo chân mây vắng
Người ấy sang sông đứng ngóng đò

Nếu biết rằng tôi đã lấy chồng
Trời ơi! Người ấy có buồn không?
Có thầm nghĩ tới loài hoa vỡ
Tựa trái tim phai, tựa máu hồng?

 
Mùa thu yêu đương

Anh muốn đôi ta mãi như người tình
Vui đời hẹn hò
Khi trên giòng suối,
Khi trên đồi buồn
Nửa đêm thanh vắng dìu đến công viên
Đôi trẻ lạc loài trên xác lá vàng
Mùa thu yêu đương
Đường vào Paris
Có lắm nụ hồng
Có tiếng thì thầm,
Nhưng anh chẳng cần
Mình sống cho nhau
Vượt lòng đại dương
Mình gặp lại đây
Sau cơn khát dài thương nhớ bao ngày
Tình yêu trong tay
Mùa thu ơi
Paris dệt mộng tình si
Khi nghe người đi vào đời,
Thấy lòng như bớt đơn côi
Bờ môi em lá nguồn tin yêu đắm đuối
Ngày thuyền tình vào bến mới
Ta sẽ cho nhau tình yêu tuyệt vời
Anh ước mai sau cũng như ngày đầu
Thương lời ngọt ngào
Dưa anh vượt khỏi cơn đau ngày nào
Mùa thu thay lá, mùa nối tơ duyên
Anh nguyện một đời tình ta mãi là
Mùa thu yêu đương

Người về, một mùa thu gió heo may
Về đâu, có nhớ chăng những vì sao long lanh đưa tiễn người một đêm không trăng?
Nói sao nên lời, lòng buồn như chiều rơi
Như trong đêm khuya, những bước chân qua thềm gợi niềm thương nhớ vô vàn

Người về, đường đi kết gió trăng sao
Người đi, có biết chăng trong chiều nay bơ vơ, nghe lá thu vàng rơi bâng quơ
Bước chân ai về, chừng thời gian ngừng trôi
Như quên đêm khuya, để gió sương thêu thùa thầm làm ướt áo vai gầy

Người về chiều mưa hay nắng?
Sao để khói lam chiều như se chùng màu không gian?
Người về dòng sông thương nhớ
Để bến vắng con đò buồn mong người, người hay chăng?
Người là vì sao nhỏ bé
Ta mãi ước cho lòng là một bầu trời xanh xanh
Người về lòng ta thương nhớ
Ta khẽ hỏi đưa người về hay thầm người đưa ta?

Người về, người về đâu nhớ ta chăng?
Người ơi, mỗi lá thu rơi làm ta bâng khuâng, như áng mây chiều lan trong sương
Bước đi âm thầm, lòng buồn như thời gian
Nghe chăng thu ơi, để lá rơi chi hoài gợi nhiềm thương nhớ ai nhiều...

Giấc mơ mùa thu


Người đi ra đi mãi mãi, chốn xưa tôi còn mong chờ
Người đi ra đi mãi mãi, vẫn không phai mờ dấu chân
Lòng tôi chiếc lá trên cành Thu về héo khô
Tôi còn nhớ ai mỗi khi chiều rơi

Người đi ra đi mãi, chốn xưa Thu vàng tôi chờ
Người đi ra đi mãi mãi, vẫn không phai niềm nhớ thương
Lòng tôi heo mây đã về, tôi còn vấn vương
Tôi còn nhớ thương khi Thu về

Bên trời một làn mây trắng lửng lờ trôi
Nghe lao xao ngoài hiên vắng lá vàng rơi
Dù biết ngày mai ngày mai nắng xuân không về
Trên cành lũ chim vẫn u mê
Dù biết người đi người đi sẽ không quay về
Sao tôi còn nhớ ai, đợi chờ ai

Ngày nào còn mang hơi thở chắc tôi vẫn còn nhớ người
Ngày nào đôi chân lê bước tuổi Xuân theo chiều nắng phai
Bàn tay nâng niu kỷ niệm vỗ về giấc mơ xa mờ
Mỗi khi Thu về tôi nhớ người


Nói với T.T.K.H
Thâm Tâm


Từ mùa thu đó những hoàng hôn
Lượm cánh hoa rơi chỉ biết buồn
Nhìn ánh nắng tà nơi xa lắm
Không còn người đến với yêu thương !

Ngày ấy thường hay ngắm lạnh lùng
Dải đường xa vút bóng chiều phong
Và phương trời thắm mờ sương, cát
Tay vít dây hoa trắng chạnh lòng.

Ngày ấy thường hay vuốt tóc em
Thỏ dài những lúc thấy em vui
Bảo rằng :"Hoa dáng như tim vỡ
Anh sợ tình ta cũng vỡ thôi !"

Đâu biết lần đi một lỡ làng
Dưới trời đau khổ chết yêu thương
Nơi xa xăm ấy anh nào biết
Có một ngày vui pháo nhuộm đường...

Từ ấy thu rồi, thu lại thu
Tình yêu còn giữ đến bao giờ
Tình yêu dẫn biết bao thương nhớ
Tình thắm cho nên rất khó mờ.

Anh sẽ yêu em trọn cuộc đời
Tháng năm hờ hững lững lờ trôi
Nhìn từng thu chết, từng thu chết
Mãi giữ trong tim bóng một người.

Buồn quá ! Một đêm trong tiểu thuyết
Nhớ thương tự ví cánh hoa xưa
Sắchồng tựa trái tim tan vỡ
Và đỏ như màu máu thắm pha.

Anh nhớ lời mình đã bảo em
Từ mùa thu trước rất xa xôi
Nếu như em hiểu thì em đã
Chẳng lỡ tình duyên - vẫn sẽ chờ.

Mỗi độ chiều thu nắng phớt lờ
Chiều thu - hoa đỏ rụng, chiều thu
Gió về lạnh lẽo chân mây trắng
Lại đến ngang sông đứng ngóng đò.

Nếu biết rằng em đã có chồng
Tình yêu ngày ấy những hoài mong
Anh đành xếp lại trong thương nhớ
Cầu trái tim em được ấm nồng !

Tản Mạn ....Những Bài Hát Mùa Thu

Con người yêu mùa thu bởi người ta cũng cần được buồn biết mấy. Người ta cần buồn để hòa mình với sự tuần hoàn của thiên nhiên đổi áo bốn mùa … người ta cần buồn để quý trọng từng khoảnh khắc vui tươi … người ta cần buồn để thương, cần buồn để nhớ.

Ngồi ngắm mưa thu, nghe Lá đổ muôn chiều của nhạc sĩ Đoàn Chuẩn. Lòng tôi chợt miên man nghĩ về thu, về những bài hát mùa thu đã coi như ký ức trong lòng, không thể không vang lên trong tôi mỗi khi lá bắt đầu rơi.
Hạ đẹp vì hạ đỏ chói chang, xuân đẹp vì xuân hồng sắc thắm, đông đẹp vì đông trắng giá băng, thu đẹp vì thu vàng nỗi nhớ.
Con người yêu mùa thu bởi người ta cũng cần được buồn biết mấy. Người ta cần buồn để hòa mình với sự tuần hoàn của thiên nhiên đổi áo bốn mùa … người ta cần buồn để quý trọng từng khoảnh khắc vui tươi … người ta cần buồn để thương, cần buồn để nhớ.

Tôi vẫn tưởng không cần cây cơm nguội vàng, cây bàng lá đỏ mới là thu sang. Mùa thu đã sẵn trong tâm tưởng con người, như kỷ niệm vĩnh viễn còn ở lại, như màu nắng có bao giờ phai.
Hoài niệm cũ chẳng cách nào rũ bỏ hoàn toàn, chỉ là ru nó tạm ngủ yên. Rồi nó sẽ trở mình thức giấc vào lúc ta ít ngờ đến nhất … khi khung trời mùa đông xám nhạt áp hơi thở lạnh buốt lên khung cửa sổ … khi thu nhuộm ố một vừng quan san, chợt gợi lên niềm hoài cổ hiu hiu buồn, lá rơi ngập trời hay rụng úa lòng ta.
Nhớ nhung, lưu luyến, hối tiếc, ngậm ngùi. Ta không còn phân định rạch ròi được nữa. Và ta mong ngóng, ta chờ đợi một điều gì mơ hồ đến bản thân cũng chẳng thể nào hiểu nổi. Dường như sau cái chát đặc của nỗi buồn se sắt vẫn đọng lại chút dư vị ngọt ngào kỳ dị. Dù hạnh phúc có ra đi nhưng tình ta còn đó, như ngàn năm ngàn năm sóng vỗ vẫn ôm một bờ cát mà thôi.

Nhắc đến thu, người ta nghĩ ngay đến sắc tơ vàng vương vương, và lá vàng rơi khi tình thu vừa khơi, nghe chừng như đây màu tê tái.
Nhưng đâu chỉ có thế …

Thu là màu tím chiếc áo ôm tim lẻ loi khóc anh chiều tiễn đưa, màu tím sầu thương của những chuỗi ngày vắng nhau tháng năm còn lướt mau biết bao giờ thấy nhau.

Thu là màu hoa thạch thảo chết lịm mong chờ bởi trên cõi đời mộng trùng lai không dễ.
Thu là sắc lông vũ hoàng hạc bay bay mãi bỏ trời mơ, là không gian thăm thẳm diệu vợi của đêm nguyệt cầm ta gọi em trong gió, là ánh sáng huyền ảo lung linh của sáng linh lan hồn ta khóc bao giờ.
Thu là màu xanh: xanh nuột nà trinh nguyên tà áo người mơ không đến bao giờ, xanh lơi lả lá thư nhuộm tình ân ái, xanh thơ ngây gót hài chênh vênh người em gái một sớm mai giữa chân trời lồng lộng, xanh óng gió bay cùng mây ngàn, xanh ngát trăng non gửi về với thu trần gian.

Bởi sự lãng đãng của mối tình nghệ sĩ hào hoa, nỗi buồn thu của Đoàn Chuẩn thanh thoát quá, êm đềm như đôi mắt hồ thu huyền hoặc đến mênh mang.
Một hòn đá ném xuống mặt hồ, cho ngàn sóng lan ra xa, khơi lên niềm nhức nhối khôn nguôi. Sắc xanh chợt mất, nhường cho lá vàng đổ muôn chiều … Rượu nồng, pháo đỏ, vu quy, cố nhân biền biệt còn không quay về? Hoa xưa đã tàn, tình ta đã tan.

Thu đi cho lá vàng bay,
lá rơi cho đám cưới về
Tình anh một con thuyền bé chìm sâu đại dương một đêm nổi sóng
Có những đêm về sáng, đời sao buồn chi mấy cố nhân ơi
Tiếc mà chi dang dở phút phân ly
Thuyền phiêu lãng từ nay không bến đổ...

Hòa trong nỗi sầu vào thu, suối mơ cũng buồn vì suối lưu luyến tình nhân thế. Nỗi buồn tưởng không thể nào trong sáng hơn thế, tình yêu tưởng không thể nào trong sáng hơn thế, chẳng bợn chút dục vọng, sầu thương, mà dường ru con tim nguôi ngoa lắng dịu.
Suối ơi !
Nghe rừng heo hút.
Dòng êm đưa lá khô già trút
Còn như lưu hương yêu dấu
Với suối xưa trôi nơi đâu...
Từng hẹn mùa xưa cùng xây nhà bên suối .
Nghe suối róc rách trôi hoa lừng hương gió ngát.
Đàn nai đùa trong khóm lá vàng tươi .
Tơ đàn chùng theo với tháng năm,
Rừng còn nhớ tới người .
Trong chiều nào giữa chốn đây,
Hồn cầm lắng tiếng đời .

Mỗi khi thưởng thức nhạc phẩm Văn Cao, nghe hơi thở Đường thi lẩn khuất trong từng lời ca, tôi lại có cảm giác như ngắm một vị mỹ nhân biết rõ là tuyệt sắc nhưng không cách nào nhìn rõ dung nhan … những dáng hồng thơm hương, mắt huyền lưu xuân, gót hài khai hoa được bao bọc trong màn sương khói hư ảo. Như đi tìm Thiên Thai, vùng đất hứa chan chứa những giai điệu thần tiên mãi mãi không tồn tại trên trần gian.
Mùa thu của Văn Cao giữ trọn cái mơ màng huyền diệu đó. Và cái Thu Cô Liêu là cái Thu buồn bã của một cái ngày xa vắng và cái nhớ đi tìm người yêu trong cái Thu thôi.

Vàng hoen đáy nước soi rõ đường đi.
Một mùa Thi, một mùa Thi
Lá rơi, rơi rụng buồn chi lá vàng.
Sương ấp lạnh non hương cứng lá
Đã từng nghe gió biết thu sang

Mùa thu chết theo lá vàng, chết trong chiếc áo đan trên tay thiếu phụ lòng buồn vương vấn. Chàng bận lòng nhớ xa khơi, chàng còn mải theo lời gió nước, còn em đan áo mà dệt trọn nỗi nhớ thương.

Người ơi còn biết em nhớ mong
Tình xưa còn đó xa xôi lòng
Nhờ bóng chim uyên nhờ gió đưa duyên
Chim với gió bay về chàng quên hết lời thề
(Buồn tàn thu)

Trong những ngày thu thảm đạm, tê tái với nỗi niềm khát khao sự sống mãnh liệt nhưng đành bất lực, có người nhạc sĩ đem trọn anh hoa một đời dựng nên thu ca tam tuyệt.

Đặng Thế Phong vẽ từng bức tranh thu bằng ca từ và nhạc điệu … không có dáng ngọc mà chỉ có trăng lan dịu dàng nhưng thấm đẫm nỗi buồn, chỉ có hoa vương sầu thu muôn đời chất ngất, chỉ có lá cây đọng lại lệ đêm trường, và kẻ cô đơn vạn kiếp thao thức nhớ thương ai.
Làn gió lướt tới cuốn đưa hồn ta phiêu diêu theo mây trắng trôi lơ lửng
Ngàn muôn tiếng réo rắt côn trùng như than như van mơ hồ theo gió lan

Trăng xuống dần
Cỏ cây thêm âm thầm
Đông buồn trong ánh sao
Như chiếu nhìn mắt ta bao lạnh lùng
Lay hồn ta rồi thu

Hồn người dường cũng đã tan theo trăng rồi. Mưa thu thánh thót rơi, u buồn lắng ngập bầu trời, có ai khóc đời người hữu hạn, có ai than kiếp mệnh bạc tài hoa. Làm sao níu lại gió, giữ lại mưa để cõi lòng đừng lâm ly khi hồn thu tới? Vợ chồng Ngâu còn khóc mãi vì thu … cho một đêm hội ngộ thỏa mộng tình si, và dương thế bao la buồn sẽ đời đời khóc cho nhất phiến tài tình thiên cổ lụy.
Lòng vắng muôn bề không liếp che gió về
Ai nức nở thương đời
chân buông mau

Sương lam đã mờ chân mây mà thuyền không bến đỗ. Thuyền ơi, còn lờ lững trôi xuôi nặng nỗi đa mang. Giữa dòng ai biết nông sâu, vơ vẩn một hồn cựu mộng, mối sầu day dứt sao chặt cho đứt, khối sầu nặng trĩu sao đập cho tan … Hơi thu theo heo mây, thông ngàn vi vu lời gió vang từ miền xa lăng lắc, thuyền nhớ bến mơ trong giấc mộng phai tàn.
Nhớ khi chiều sương, cùng ai trắc ẩn tấm lòng.
Biết bao buồn thương, thuyền mơ buồn trôi xuôi dòng
Bến mơ dù thiết tha, thuyền ơi đừng chờ mong

(Con thuyền không bến) - Đặng Thế Phong
Ngọc Hạ hát

Trần Tuấn Cường

Thơ Tình Cuối Mùa Thu

Cuối trời mây trắng bay
Lá vàng thưa thớt quá
Phải chăng lá về rừng
Mùa thu đi cùng lá
Mùa thu ra biển cả
Theo dòng nước mênh mang
Mùa thu và hoa cúc
Chỉ còn anh và em

Chỉ còn anh và em
Là của mùa thu cũ
Chợt làn gió heo may
Thổi về xao động cả:
Lối đi quen bỗng lạ
Cỏ lật theo chiều mây
Đêm về sương ướt má

Hơi lạnh qua bàn tay
Tình ta như hàng cây
Đã bao mùa gió bão
Tình ta như dòng sông
Đã yên ngày thác lũ.

Thời gian như là gió
Mùa đi cùng tháng năm
Tuổi theo mùa đi mãi
Chỉ còn anh và em

Chỉ còn anh và em
Cùng tình yêu ở lại...
- Kìa bao người yêu mới
Đi qua cùng heo may.

XUÂN QUỲNH

Càng nhìn em yêu em hơn
Và yêu em mãi
Dù phút êm đềm xa xưa
Nay đã đi vào quên lãng

Trời vào thu Việt Nam buồn lắm anh ơi !
Mây tím đang dâng cao vời
Mà tình yêu chưa lên ngôi

Ngày mình yêu
Anh đâu hay tình ta gian dối
Để bước phong trần tha hương
Em khóc cho đời viễn xứ

Về làm chi rồi anh lặng lẽ ra đi
Gom góp yêu thương quê nhà
Dâng hết cho người tình xa

Em đâu ngờ
Có ngày đàn đứt dây tơ
Một phút tim em ơ hờ
Trọn kiếp em vương sầu nhớ

Nói đi em cả đời mình mãi đi tìm
Cả đời mình xây ước mơ
Cho ngày mộng được nên thơ
Cuối cùng là tình bơ vơ

Cho anh xin một đêm trăn trối
Gởi đống tro tàn năm xưa
Dâng hết cho lần yêu cuối

Rồi từng đêm
Từng đêm nhịp bước cô đơn
Em khóc cho duyên hững hờ
Anh chết trong mộng ngày thơ

Vu vơ thu

Thu còn dừng bước lưng chừng
Trăng thề chưa trọn rưng rưng lá vàng


Hồn thu
Gió thu lay đỉnh sầu vây
Mầu thu nhuộm sắc lá bay theo chiều
Trăng thu đẩy lạc cánh diều
Sắc thu tim tím tiêu điều mà say


Tình thu
Vườn thu chờ ngọn gió lay
Trăng thu chờ áng mây gầy nhớ nhung
Suối thu gọi nhạc tương phùng
Tình thu lạc cõi mênh mông mất rồi


Mưa thu
Đầy trời mây rải giọt thu
Ngưu Lang chức Nữ chờ từ bao lâu
Ô thước về bắc nhịp cầu
Chiều nay giọt lệ thẫm mầu biệt ly


Lá thu
Lá xanh rồi chín rồi rơi
Ngỡ rằng chẳng biết chơi vơi muộn sầu
Ai ngờ lá cũng chờ nhau
Lá ơi đừng ngóng kẻo đau lòng chiều


Thu chờ
Có những lời hẹn chưa bao giờ được nói
Có những câu thề chưa bao giờ được trao
Có những vọng phu không bao giờ hóa đá
Mà thu nào cũng vẫn ngóng trông nhau…


Hà Nội ơi mỗi khi lòng xác xơ
Tôi vội vã trở về
Lấy cho lòng mình dù chỉ là chút bóng đêm trên đường phố quen
Dù chỉ là một chiều hương giăng lối cũ

Tôi bồi hồi khi chạm bóng cửa ô
Như ngày xưa mỗi lần chạm vai gầy áo mẹ
Ôi nỗi nhớ muôn đời vẫn thế
Như giòng sông Hồng cuộn đỏ mãi trong tôi
Vội vã trở về, vội vã ra đi
Chẳng thể nào qua hết từng con phố
Nhưng còn đó mùa thu, mùa thu đầy gió
Và rêu xanh bên những gốc cây già

Vội vã trở về cùng tháng năm xưa
Sau những con đường dầu dãi nắng mưa
Bên quán nhỏ em buồn nghe lá trút
Chiều mưa xa giăng kín phố dài

Hà Nội ơi, mỗi khi lòng xác xơ
Tôi vội vã trở về để nghe tim rưng rưng trong nước hồ thu


Dấu Tình

Gió gọi đông về rũ cánh mong
Mơn man sương ướm đóa môi hồng
Lùa ngàn hoa tuyết vùi thương nhớ
Khoác áo trinh nguyên trắng mộng lòng

Tuyết bảo rừng thông reo khúc yêu
Cung đàn ân ái lấp cô liêu
Hài son in dấu trên đường vắng
Dẫm bước theo sau bóng yêu kiều

Nắng đánh thức nàng Xuân cỏ hoa
Vòng xoay xiêm áo đọng sương sa
Lung linh ánh màu bướm bay lượn
Vờn bên em xinh đóa hồng đào

Ve kêu hè sang phượng thắm tươi
Chiếc lá thuộc bài ngậm bờ môi
Trang lưu bút tím loang dòng mực
Trống tan trường gõ nhịp vào đời

Chú nai thì thầm ngọn suối thương
Mùa thu cánh nâu báo nhập trường
Em đến lớp guốc khua đi học
Vạt áo lụa là trắng cả đường

Để rồi hương yêu luồn xuyên tim
Bốn mùa bên em giấc dịu êm
Ngọn nến tình anh ầm ỉ cháy
Rạo rực niềm vui xóa muộn phiền

Sao giữ mãi thời áo trắng được
Tuổi thơ ngây ngọt tiếng à ơi
Mối tình đầu lạc vùng ký ức
Vào cõi nhớ một thuở diệu vời.

Tiểu Vũ Vi

Dáng Thu

Yểu điệu nảng thu đến dịu dàng
Bên hồ bán nguyệt ánh trăng loang
Lung linh ngọc thủy soi màu biếc
Rực rở rừng phong trổ sắc vàng
Nhặt chiếc lá rơi sầu diệu vợi
Gom cành hoa rụng nhớ mênh mang
Bóng chiều thấp thoáng trên sông vắng
Vọng tiếng từ xa én gọi đàn

Trà My

Chiều tương tư

vườn hoa nở những đóa thơ
chiều buông óng ánh sợi tơ nắng vàng
em gieo một chút dịu dàng
anh vừa nhặt được trong hoàng hôn say
tóc em đã dệt thành mây
ánh hồng đôi má nhuộm ngày cuối thu
lá bay tràn ngõ hoang vu
chiều đi
còn nỗi tương tư đứng hoài

Hoàng Sa